Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Alfred Riedl”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Liên kết ngoài: them the loai using AWB
n (Bot) AlphamaEditor, Executed time: 00:00:23.6530919
 
(Không hiển thị 40 phiên bản của 26 người dùng ở giữa)
Dòng 1: Dòng 1:
{{Thông tin tiểu sử bóng đá
{{Chú thích trong bài}}{{Thông tin tiểu sử bóng đá
| name = Alfred Riedl
| name = Alfred Riedl
| fullname = Alfred Riedl
| fullname = Alfred Riedl
| image = Alfred Riedl, Fußballtrainer, Österreich (02).jpg
| image = Alfred Riedl, Fußballtrainer, Österreich (02).jpg
| birth_date = {{Birth date and age|df=y|1949|11|2}}
| birth_date = {{Birth date|df=y|1949|11|2}}
| birth_place = [[Viên]], [[Áo]]
| birth_place = [[Viên]], [[Áo]]
| death_date = {{death date and age|2020|9|8|1949|11|2}}
| death_place = [[Viên]], [[Áo]]
| height = {{Height|m=1,84}}
| height = {{Height|m=1,84}}
| position = [[Tiền đạo (bóng đá)|Tiền đạo]]
| position = [[Tiền đạo (bóng đá)|Tiền đạo cắm]]
| clubnumber =
| clubnumber =
| youthclubs1 = ATSV Teesdorf
| youthclubs1 = ATSV Teesdorf
Dòng 76: Dòng 78:
| managerclubs12 = [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Indonesia|Indonesia]]
| managerclubs12 = [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Indonesia|Indonesia]]
| managerclubs13 = [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Lào|Lào]] (giám đốc kĩ thuật)
| managerclubs13 = [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Lào|Lào]] (giám đốc kĩ thuật)
| managerclubs14 = [[C.S. Visé|Visé]]
| managerclubs14 = [[C.S. Visé|Visé]] (trưởng phòng phát triển trẻ)
| managerclubs15 = [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Indonesia|Indonesia]]
| managerclubs15 = [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Indonesia|Indonesia]]
| pcupdate = 15 tháng 8 năm 2008
| pcupdate = 15 tháng 8 năm 2008
Dòng 85: Dòng 87:
| manageryears17 = 2016
| manageryears17 = 2016
}}
}}
'''Alfred Riedl''' (sinh ngày [[2 tháng 11]] năm [[1949]]) là một cựu cầu thủ và một huấn luyện viên bóng đá người [[Áo]]. Khi là cầu thủ, ông đã từng thi đấu tại các giải vô địch [[giải vô địch bóng đá Áo|bóng đá Áo]], [[giải vô địch bóng đá Bỉ|Bỉ]] và [[giải vô địch bóng đá Pháp|Pháp]]. Trong thời gian đó, ông đã giành chức vô địch Áo, [[cúp bóng đá Áo]] và các danh hiệu vua phá lưới Áo và Bỉ cùng giải thưởng [[Chiếc giày vàng châu Âu|Chiếc giày đồng châu Âu]] năm [[1975]].
'''Alfred Riedl''' ([[2 tháng 11]] năm [[1949]] - [[8 tháng 9]] năm [[2020]]) là một cố [[Cầu thủ bóng đá|cầu thủ]][[Huấn luyện viên (bóng đá)|huấn luyện viên bóng đá]] người [[Áo]]. Khi là cầu thủ, Riedl đã từng thi đấu tại các giải vô địch [[giải vô địch bóng đá Áo|quốc gia Áo]], [[giải vô địch bóng đá Bỉ|Bỉ]] và [[giải vô địch bóng đá Pháp|Pháp]]. Trong thời gian đó, Riedl đã giành chức vô địch Áo, [[Cúp bóng đá Áo]] và các danh hiệu vua phá lưới Áo và Bỉ cùng giải thưởng [[Chiếc giày vàng châu Âu|Chiếc giày đồng châu Âu]] năm [[1975]]. Vai trò huấn luyện cuối cùng của ông là với [[đội tuyển bóng đá quốc gia Indonesia]].<!-- Khả năng ngôn ngữ


Riedl có thể nói được 4 thứ tiếng: tiếng Đức, tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Hà Lan. -->
== Khả năng ngôn ngữ ==
Ông có thể nói được 4 thứ tiếng: [[tiếng Đức]], [[tiếng Anh]], [[tiếng Pháp]] và [[tiếng Hà Lan]].


== Sự nghiệp cầu thủ ==
== Sự nghiệp cầu thủ ==
Ông đã từng là cầu thủ của: ATSV Teesdorf/Áo (1961 - 1967); Austria Wien/Áo (1967-1972); St. Truiden/Bỉ (1972-1974); Royal Antwerp/Bỉ (1974-1976); Standard Liege/Bỉ (1976-1980); FC Metz/Pháp (1980-1981); GAK/Áo (1981-1982); Wiener Sportclub/Áo (1982-1984); Vfb Mödling/Áo (1984-1985)


=== Câu lạc bộ ===
Với tư cách là cầu thủ đội tuyển Áo (4 lần khoác áo), đội U23 Áo (6), đội U18 Áo (5)
Ông bắt đầu thi đấu cho [[FK Austria Wien]], trước khi rời Áo để chơi cho câu lạc bộ Bỉ [[Sint-Truidense V.V.|Sint-Truidense]] năm 22 tuổi. Sau khi thi đấu tám mùa giải ở [[Giải bóng đá vô địch quốc gia Bỉ|Giải hạng nhất Bỉ]] (hai với Sint-Truiden, hai với [[R. Antwerp FC|Royal Antwerp]] và bốn với [[Standard Liège]]), Riedl đã có một khoảng thời gian ngắn tại [[FC Metz]] ở Pháp. Ông đã trở lại Áo sau một mùa giải duy nhất ở đó, thi đấu cho [[Grazer AK]], và sau đó tại [[Wiener Sportclub]] và [[VfB Admira Wacker Mödling]], nơi ông kết thúc sự nghiệp cầu thủ. Ông có hai lần đoạt danh hiệu [[Cầu thủ ghi bàn xuất sắc nhất giải vô địch bóng đá Bỉ|vua phá lưới]] của Giải hạng nhất Bỉ (1973, 1975).


== Danh hiệu đạt được ==
==== Thống sự nghiệp ====
{| class="mw-collapsible mw-collapsed" cellspacing="2" cellpadding="4" border="1" align="center" style="background: ivory; font-size: 95%; border: 1px #aaaaaa solid; border-collapse: collapse; text-align:center"
Vô địch quốc gia Áo (1969, 1970); vua phá lưới Áo (1972), [[vua phá lưới]] Bỉ (1973, 75), [[chiếc giày đồng]] châu Âu (1975)
! rowspan="2" width="130" |Câu lạc bộ
! rowspan="2" |Mùa giải
! colspan="2" |Giải quốc gia
! colspan="2" |Cúp<ref>[[Cúp Bóng đá Áo]], [[Cúp Bóng đá Bỉ]]</ref>
! colspan="2" |Cúp châu Âu<ref>[[UEFA Champions League|Cúp C1 châu Âu]], [[UEFA Europa League|Cúp UEFA]], [[UEFA Cup Winners' Cup|Cúp các câu lạc bộ đoạt cúp bóng đá quốc gia châu Âu]], [[UEFA Intertoto Cup|Intertoto Cup]].</ref>
|- style="background:beige"
!Trận
!Bàn
!Trận
!Bàn
!Trận
!Bàn
|-
! rowspan="6" |[[FK Austria Wien]]
|1967–68
|1
|0
|0
|0
|0
|0
|-
|[[ФК «Аустрия» (Вена) в сезоне 1968/1969|1968–69]]
|19
|19
|4
|2
|1
|0
|-
|[[ФК «Аустрия» (Вена) в сезоне 1969/1970|1969–70]]
|25
|10
|2
|0
|5
|2
|-
|[[ФК «Аустрия» (Вена) в сезоне 1970/1971|1970–71]]
|29
|13
|5
|7
|4
|2
|-
|[[ФК «Аустрия» (Вена) в сезоне 1971/1972|1971–72]]
|21
|16
|3
|5
|5
|3
|- style="background:lemonchiffon"
!Tổng
!95
!58
!14
!14
!15
!7
|-
! rowspan="3" |[[Sint-Truidense V.V.|Sint-Truiden]]
|1972–73
|26
|16
|3
|1
|0
|0
|-
|1973–74
|30
|17
|3
|4
|0
|0
|- style="background:lemonchiffon"
!Tổng
!56
!33
!6
!5
!0
!0
|-
! rowspan="3" |[[R. Antwerp FC|Royal Antwerp]] F.C.
|1974–75
|34
|28
|7
|5
|4
|1
|-
|1975–76
|20
|6
|1
|1
|0
|0
|- style="background:lemonchiffon"
!Tổng
!54
!34
!8
!6
!4
!1
|-
! rowspan="5" |[[Standard Liège]]
|1976–77
|32
|18
|2
|3
|0
|0
|-
|1977–78
|31
|19
|4
|4
|6
|1
|-
|1978–79
|15
|3
|1
|0
|0
|0
|-
|1979–80
|27
|13
|4
|1
|6
|2
|- style="background:lemonchiffon"
!Tổng
!105
!53
!11
!8
!12
!3
|-
! rowspan="2" |[[FC Metz]]
|1980–81
|19
|6
|0
|0
|0
|0
|- style="background:lemonchiffon"
!Tổng
!19
!6
!0
!0
!0
!0
|-
! rowspan="3" |[[Grazer AK]]
|1980–81
|17
|3
|1
|1
|0
|0
|-
|1981–82
|25
|9
|4
|3
|2
|1
|- style="background:lemonchiffon"
!Tổng
!42
!12
!5
!4
!2
!1
|-
! rowspan="3" |[[Wiener Sportclub]]
|1982–83
|25
|6
|1
|0
|3
|0
|-
|1983–84
|27
|9
|2
|0
|0
|0
|- style="background:lemonchiffon"
!Tổng
!52
!15
!3
!0
!3
!0
|-
! rowspan="2" |[[VfB Admira Wacker Mödling]]
|1984–85
|0
|0
|2
|1
| -
| -
|- style="background:lemonchiffon"
!Tổng
!0
!0
!2
!1
!0
!0
|- style="background:beige"
! colspan="2" |Tổng cộng
!423
!211
!49
!38
!36
!12
|}


=== Quốc tế ===
== Sự nghiệp huấn luyện viên ==
Riedl đã bốn lần khoác áo [[đội tuyển bóng đá quốc gia Áo]], lần đầu tiên là vào tháng 4 năm 1975 trong trận đấu với [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Hungary|Hungary]]. Trước đó ông cũng thi đấu cho các đội U-23 Áo (6 lần) và U-18 (5 lần) của nước này.
Đội U23 Áo (1990), Đội tuyển Áo (1990-1992), đội tuyển Liechteinstein (1997-1998); đội tuyển quốc gia và U23 [[Việt Nam]] (1998-2001; 2003; 2005-2007); đội tuyển [[Palestine]] (2004), [[Câu lạc bộ bóng đá Vicem Hải Phòng|Xi măng Hải Phòng]] (2008-2009).


== Sự nghiệp huấn luyện ==
Từ [[27 tháng 6]] năm [[2009]], ông đã ký hợp đồng làm huấn luyện viên cho đội tuyển Lào


=== Câu lạc bộ ===
Ngày 4 tháng 5 năm 2010 ông ký hợp đồng làm huấn luyện viên trưởng [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Indonesia|đội tuyển Indonesia]] và giúp đội bóng giành ngôi á quân [[Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2010|AFF Cup 2010]].
Ông bắt đầu sự nghiệp huấn luyện của mình ngay sau khi giải nghệ vào năm 1986, đứng đầu ban huấn luyện của câu lạc bộ nghiệp dư [[:de:ASK Kottingbrunn|Kottingbrunn]], nơi ông làm việc từ năm 1986 đến năm 1987. Sau đó, ông gia nhập ban huấn luyện của đội bóng quê hương Austria Wien, và nhận lời mời của người đồng hương [[Walter Skocik]] để làm việc tại đội bóng của Ả Rập Xê Út [[Al-Ittihad (Jeddah)|Al-Ittihad]]. Năm 1989, ông thay thế Helmut Herbert trở thành huấn luyện viên trưởng của [[Câu lạc bộ thể thao Wiener]]. Mùa giải tiếp theo, ông rời câu lạc bộ để tiếp quản [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Áo|đội tuyển quốc gia Áo]], trước khi ký hợp đồng với [[Câu lạc bộ thể thao yêu thích|Favoritner AC]] năm 1991. Năm 1993, ông làm huấn luyện viên của câu lạc bộ [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Maroc|Maroc]] Olympique Khouribga, đưa đội bóng đến chung kết Cúp Maroc 1993-94. Năm 1994, ông chuyển đến dẫn dắt câu lạc bộ [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Ai Cập|Ai Cập]] Al-Zamalek và giúp đội giành ngôi á quân [[CAF Champions League|Cúp vô địch các câu lạc bộ châu Phi 1994]]. Ông dẫn dắt câu lạc bộ này cho đến 1995.


Năm 2001, ông trở thành huấn luyện viên trưởng của câu lạc bộ Khánh Hòa (Việt Nam), sau đó là [[Al Salmiyah (câu lạc bộ bóng đá)|Al Salmiyah]] của [[Kuwait]] (2001–03) và giành chức vô địch Kuwait Cup và Cúp Thái tử Kuwait cùng năm, đồng thời trở thành á quân giải vô địch quốc gia.
ngày 13 tháng 7 năm 2011, Riedl bị liên đoàn bóng đá Indonesia sa thải do ông bị cho là không đủ năng lực đẩy nhanh tiến trình phát triển của bóng đá quốc gia.Trên tờ Jakarta Post, Djohar Arifin Husin,Chủ tịch PSSI lại đưa ra lý do khác: ''"Ông ta chưa hề ký hợp đồng với PSSI. Chúng tôi phát hiện ra điều này khi tìm các giấy tờ hợp đồng của Riedl ở trụ sở liên đoàn. Ông ta chỉ ký hợp đồng cá nhân với cựu phó Tổng thư ký PSSI Nirwan Dermawan Bakrie. Đây là lý do chính khiến chúng tôi quyết định cắt hợp đồng với Riedl"''.<ref>[http://vnexpress.net/gl/the-thao/2011/07/hlv-alfred-riedl-bi-ldbd-indonesia-sa-thai/ hlv Alfred Riedl bị LĐBĐ Indonesia sa thải]</ref>


Tháng 10 năm 2008, ông trở về [[Việt Nam]] làm huấn luyện viên cho câu lạc bộ bóng đá [[Câu lạc bộ bóng đá Hải Phòng|Hải Phòng]]. Tuy nhiên, chỉ sau 3 trận ở [[Giải bóng đá vô địch quốc gia 2009|giải vô địch quốc gia]] với kết quả không tốt (thua 2/3 trận, trong đó có trận thua trên sân nhà), Riedl đã bị sa thải.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.english.vietnamnet.vn/sports/2009/03/833658/|tựa đề=Hai Phong fires coach Riedl|nhà xuất bản=VietNamNet Bridge|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20090310083009/http://english.vietnamnet.vn/sports/2009/03/833658/|ngày lưu trữ=10 March 2009|url-status=dead|ngày truy cập=2 March 2009}}</ref>
Sau khi bị LĐBĐ Indonesia (PSSI) sa thải ngày 13 tháng 7, huấn luyện viên Alfred Riedl khẳng định mình mất việc vì động cơ chính trị và tính đến khả năng khởi kiện PSSI lên [[FIFA]] nếu không được đền bù hợp đồng.<ref>[http://laodong.com.vn/Tin-Tuc/Bi-sa-thai-hlv-Alfred-Riedl-doa-kien-LDBD-Indonesia/50365 Bị sa thải, hlv Alfred Riedl "dọa kiện" LĐBĐ Indonesia]</ref>


Năm 2012, ông tham gia công tác đào tạo trẻ của câu lạc bộ Visé (Bỉ).
== Thành tích huấn luyện viên ==
Á quân [[Cúp bóng đá châu Phi 1994]]; cùng đội tuyển Việt Nam giành các danh hiệu huy chương bạc [[Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 1998|Tiger Cup 1998]], huy chương đồng Dunhill Cup 1999, huy chương bạc [[Đại hội Thể thao Đông Nam Á 1999|SEA Games 1999]], 2003, 2005, huy chương bạc LG Cup 2000, vô địch LG Cup 2003 và mới đây nhất là vào tứ kết Asian Cup 2007; thứ ba giải vô địch quốc gia Kuwait 2002, á quân vô địch quốc gia Kuwait 2003; á quân Emir Cup (Kuwait) 2003


=== Đội tuyển quốc gia ===
== Thời gian làm huấn luyện viên tại Việt Nam ==
Ông đã dẫn dắt nhiều đội tuyển quốc gia, bao gồm U-23 Áo (1990) [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Áo|Áo]] (1990–92), [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Liechtenstein|Liechtenstein]] (1997–98), [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Palestine|Palestine]] (2004–05), [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam|Việt Nam]] (1998–2001, 2003–04, 2005–07), [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Lào|Lào]] (2009–10) và Indonesia (2010–16).
Năm 1998, ông trở thành huấn luyện viên người nước ngoài thứ tư của đội tuyển Việt Nam. Tuy chỉ nắm chức vụ này trong 2 năm, ông cũng đã đưa đội tuyển đạt thành tích 2 lần ở vị trí Á quân của khu vực.


Sau [[Giải vô địch bóng đá thế giới 1990|World Cup 1990,]] ông kế thừa vị trí trống của [[Josef Hickersberger]] - đồng đội cũ của ông tại Austria Wien, trở thành huấn luyện viên trưởng [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Áo|đội tuyển quốc gia Áo]]. Cuối năm 1991, ông bị sa thải vì không thể giúp đội tuyển Áo [[Giải vô địch bóng đá châu Âu 1992|giành vé tham dự Euro 1992]]. Dưới sự dẫn dắt của Riedl, đội tuyển Áo đã thi đấu 8 trận, chỉ thắng 1, hòa 3 và thua 4 trận.
Năm 2001, Alfred Riedl là huấn luyện viên trưởng của [[câu lạc bộ bóng đá Khánh Hòa]] trong 4 tháng (từ [[1 tháng 2]] đến [[31 tháng 5]]) <ref>[http://vnexpress.net/Vietnam/The-thao/2001/01/3B9AD70D/ hlv Riedl: "Tôi sẽ huấn luyện đội Khánh Hòa trong 4 tháng"] trên [[VnExpress]] ngày 12/1/2001.</ref>. Chức vụ huấn luyện viên trưởng đội tuyển Việt Nam của ông được thay thế bởi [[Dido (cầu thủ bóng đá)|Edson Silva Dido]]. Năm 2002, một lần nữa ông trở lại chức vụ này, nhưng không lâu sau ông lại nhận lời làm huấn luyện viên câu lạc bộ cho Kuwait.


Từ [[27 tháng 6]] năm [[2009]], Riedl đã ký hợp đồng làm huấn luyện viên trưởng cho đội tuyển Lào trong thời gian hai năm.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.laola1.at/135+M5eb64e51c70.html|tựa đề=Neuer Job für Alfred Riedl|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20090715081512/http://www.laola1.at/135+M5eb64e51c70.html|ngày lưu trữ=15 July 2009|url-status=dead|ngày truy cập=10 July 2009}}</ref> Sau khi bị Indonesia sa thải khỏi chức danh huấn luyện viên đội tuyển Indonesia năm 2011, ông được bổ nhiệm làm huấn luyện viên đội tuyển U-23 quốc gia Lào tại [[Bóng đá tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2011|SEA Games]] 2011 diễn ra ở Indonesia. Sau khi SEA Games kết thúc, hợp đồng của Riedl không được phía [[Liên đoàn bóng đá Lào|Lào]] gia hạn.
Năm 2005, Liên đoàn bóng đá Việt Nam đã chọn ông là huấn luyện viên trưởng đội tuyển [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam|Việt Nam]] sau sự lựa chọn nhiều tranh cãi. Tổng cộng Alfred Riedl đã 3 lần dẫn dắt các đội tuyển Việt Nam và là huấn luyện viên trưởng đội tuyển đạt nhiều danh hiệu nhất trong lịch sử bóng đá Việt Nam.


==== Indonesia ====
Tháng 2 năm [[2007]], Alfred Riedl trải qua một ca ghép [[thận]] tại quê hương. Chính vì việc này mà có nhận định rằng ông sẽ không dẫn dắt đội tuyển Việt Nam nữa <ref>[http://web.archive.org/web/20070922224754/http://thethao.vietnamnet.vn/bongda/dtqg/2007/02/662893/ Riedl-VFF: Đã sẵn sàng cho một cuộc chia tay!]</ref>.
Ngày 4 tháng 5 năm 2010, Alfred Riedl được bổ nhiệm làm huấn luyện viên của đội tuyển quốc gia và U-23 Indonesia.<ref>[http://www.the-afc.com AFC website]</ref> Ông đã dẫn dắt [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Indonesia|đội tuyển quốc gia Indonesia]] giành ngôi á quân [[Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2010|AFF Cup 2010]]. Vào ngày 13 tháng 7 năm 2011, ông bị sa thải vì vướng phải tranh chấp hợp đồng với [[Hiệp hội bóng đá Indonesia]] (PSSI).<ref>{{Chú thích web|url=https://vnexpress.net/hlv-alfred-riedl-bi-ldbd-indonesia-sa-thai-1086587.html|tựa đề=HLV Alfred Riedl bị LĐBĐ Indonesia sa thải|website=Báo điện tử VnExpress|ngôn ngữ=vi|ngày truy cập=2022-03-10}}</ref><ref>[http://www.thejakartapost.com/news/2011/07/13/pssi-fires-riedl-appoints-new-coach.html The Jakarta Post: PSSI Fires Riedl Appoints New Coach] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20110915114109/http://www.thejakartapost.com/news/2011/07/13/pssi-fires-riedl-appoints-new-coach.html|date=15 September 2011}}</ref> Ông cho rằng mình mất việc vì động cơ chính trị và tính đến khả năng khởi kiện PSSI lên [[FIFA]] nếu không được đền bù hợp đồng.<ref>{{Chú thích web|url=https://vtc.vn/bi-indonesia-sa-thai-alfred-riedl-doa-kien-len-fifa-ar44317.html|tựa đề=Bị Indonesia sa thải, Alfred Riedl dọa kiện lên FIFA|họ=News|tên=V. T. C.|ngày=2011-07-15|website=Báo điện tử VTC News|ngôn ngữ=vi|ngày truy cập=2022-03-10}}</ref>


Tháng 12 năm 2013, Riedl được tái bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng đội tuyển quốc gia Indonesia bằng một bản hợp đồng 3 năm.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.merdeka.com/sepakbola/alfred-riedl-dapat-kontrak-bersyarat-dari-pssi-btn.html|tựa đề=Alfred Riedl dapat kontrak bersyarat dari PSSI-BTN|ngày=7 December 2013}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://kurier.at/sport/fussball/alfred-riedl-wieder-teamchef/39.665.336|tựa đề=Alfred Riedl wieder Teamchef|ngày=8 December 2013}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.goal.com/en-sg/news/3952/asia/2013/12/09/4464074/indonesia-reappoint-riedl-with-aff-championship-ultimatum|tựa đề=Indonesia reappoint Riedl with AFF Championship ultimatum {{!}} Goal.com}}</ref> Hợp đồng của ông đã bị chấm dứt theo sự đồng ý của hai bên vào cuối năm 2014, sau khi Indonesia không thể lọt vào vòng loại trực tiếp của [[Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2014|AFF Suzuki Cup 2014]]. Riedl sau đó nhận công việc huấn luyện viên trưởng của [[PSM Makassar]] vào đầu năm 2015, nhưng từ chức vào tháng 4 năm đó vì vấn đề sức khỏe.
Tuy nhiên, Alfred Riedl đã trở lại, cùng [[Mai Đức Chung]] đưa đội tuyển Olympic Việt Nam lần đầu tiên lọt vào vòng loại thứ 3 giải Olympic.


Rield trở lại làm huấn luyện viên trưởng của Indonesia vào năm 2016 theo bản hợp đồng có thời hạn một năm, và lần này ông đã dẫn dắt Indonesia đến trận chung kết [[Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2016|AFF Cup 2016]], lập lại thành tích năm 2010. Sau khi Indonesia để thua Thái Lan với tỷ số 2-3 trong trận chung kết, hợp đồng của ông không được PSSI gia hạn.
Tại [[Cúp bóng đá châu Á 2007|Asian Cup 2007]] được tổ chức tại [[Việt Nam]], cũng là lần tham gia vòng chung kết [[Cúp bóng đá châu Á|Asian Cup]] đầu tiên của [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam|đội tuyển Việt Nam]], Riedl đã đưa Việt Nam vượt qua vòng đấu bảng, vào đến tứ kết và dừng bước trước [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Iraq|Iraq]] (sau là vô địch giải).


==== Việt Nam ====
Ngày [[10 tháng 12]] năm [[2007]], do thành tích yếu kém của đội tuyển Việt Nam tại [[Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2007|SEA Games 24]] (thất bại trước [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Myanmar|Myanmar]] trên chấm 11m), dưới sức ép của [[Liên đoàn Bóng đá Việt Nam|Liên đoàn bóng đá Việt Nam]] và người hâm mộ, Afred Riedl đã từ chức huấn luyện viên trưởng đội tuyển bóng đá Việt Nam <ref>[http://vnexpress.net/Vietnam/The-thao/2007/12/3B9FD3A4/ Huấn luyện viên Riedl chấp thuận từ chức]</ref>.
Năm 1998, ông trở thành huấn luyện viên người nước ngoài thứ tư của đội tuyển Việt Nam. Tuy chỉ nắm chức vụ này trong 2 năm, Riedl đã đưa đội tuyển 2 lần cán đích ở vị trí á quân của khu vực ([[Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 1998|Tiger Cup 1998]] và [[Đại hội Thể thao Đông Nam Á 1999|SEA Games 1999]]).


Năm 2001, Alfred Riedl là huấn luyện viên trưởng của [[câu lạc bộ bóng đá Khánh Hòa]] trong 4 tháng (từ [[1 tháng 2]] đến [[31 tháng 5]])<ref>[http://vnexpress.net/Vietnam/The-thao/2001/01/3B9AD70D/ hlv Riedl: "Tôi sẽ huấn luyện đội Khánh Hòa trong 4 tháng"] trên [[VnExpress]] ngày 12/1/2001. {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20071218145504/http://vnexpress.net/Vietnam/The-thao/2001/01/3B9AD70D/ |date=2007-12-18 }}</ref>; chức vụ huấn luyện viên trưởng đội tuyển Việt Nam của ông được thay thế bởi [[Dido (cầu thủ bóng đá)|Edson Silva Dido]]. Năm 2002, một lần nữa Riedl trở lại chức vụ này, nhưng sau đó lại nhận lời làm huấn luyện viên cho một câu lạc bộ của Kuwait.
Sau đó năm 2008, ông được mời trở lại dẫn dắt câu lạc bộ Hải Phòng. Tuy nhiên chỉ sau 3 trận ở giải vô địch [[giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam 2009|quốc gia]] với thành tích không tốt (thua 2 / 3 trận, trong đó có trận thua trên sân nhà), ông đã bị sa thải <ref>[http://dantri.com.vn/c26/s26-311187/xm-hai-phong-sa-thai-huan-luyen-vien-a-riedl.htm XM Hải Phòng sa thải hlv A. Riedl]</ref>.

Năm 2005, [[Liên đoàn bóng đá Việt Nam]] (VFF) đã chọn Riedl là huấn luyện viên trưởng đội tuyển [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam|Việt Nam]].

Tháng 2 năm [[2007]], Alfred Riedl trải qua một ca ghép [[thận]] tại quê hương.<ref>{{Chú thích web|url=http://thethao.vietnamnet.vn/bongda/dtqg/2007/02/662893/|tựa đề=Riedl-VFF: Đã sẵn sàng cho một cuộc chia tay!|archive-url=https://web.archive.org/web/20070922224754/http://thethao.vietnamnet.vn/bongda/dtqg/2007/02/662893/|archive-date=2007-09-22|url-status=live|ngày truy cập=2007-09-22}}</ref> Thời gian này, ông giao [[Mai Đức Chung]] dẫn dắt đội tuyển Olympic Việt Nam và có lần đầu tiên lọt vào [[Bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 2008 - Vòng loại nam khu vực châu Á|vòng loại thứ 3 môn bóng đá nam Olympic khu vực châu Á]].

Tại [[Cúp bóng đá châu Á 2007|Asian Cup 2007]], cũng là lần tham gia vòng chung kết [[Cúp bóng đá châu Á|Asian Cup]] đầu tiên của đội tuyển Việt Nam, Riedl đã đưa đội vượt qua vòng đấu bảng, lần đầu tiên vào đến tứ kết và dừng bước trước [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Iraq|Iraq]], nhà vô địch giải đấu sau đó.

Ngày [[10 tháng 12]] năm [[2007]], do thành tích yếu kém của đội tuyển Việt Nam tại [[Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2007|SEA Games 24]] (thất bại trước [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Myanmar|Myanmar]] trên chấm 11m), dưới sức ép của [[Liên đoàn bóng đá Việt Nam]] và người hâm mộ, Afred Riedl đã từ chức huấn luyện viên trưởng đội tuyển bóng đá Việt Nam.<ref>[http://vnexpress.net/Vietnam/The-thao/2007/12/3B9FD3A4/ Huấn luyện viên Riedl chấp thuận từ chức]</ref>

Tổng cộng, Alfred Riedl đã 3 lần dẫn dắt các đội tuyển Việt Nam và là huấn luyện viên ngoại thành công nhất của bóng đá Việt Nam trước thời Henrique Calisto.<ref>{{Chú thích web|url=https://vnexpress.net/hlv-alfred-riedl-qua-doi-4158943.html|tựa đề=HLV Alfred Riedl qua đời|website=Báo điện tử VnExpress|ngôn ngữ=vi|ngày truy cập=2022-03-10}}</ref>

== Qua đời ==
Riedl mất tại Áo vào ngày 8 tháng 9 năm 2020 tại Áo vì bệnh ung thư.<ref>{{Chú thích báo|date=10 September 2020|title=Riedl loses cancer fight, Kiatisak hails Austrian|work=Bangkok Post|url=https://www.bangkokpost.com/sports/1982695/riedl-loses-cancer-fight-kiatisak-hails-austrian|access-date=25 September 2020}}</ref><ref>{{Chú thích báo|date=8 September 2020|title=Former Indonesian national team soccer coach Alfred Riedl dies at 70|work=The Jakarta Post|url=https://www.thejakartapost.com/news/2020/09/08/former-indonesian-national-team-soccer-coach-alfred-riedl-dies-at-70.html|access-date=25 September 2020}}</ref>

== Danh hiệu ==

=== Cầu thủ ===

* [[Giải bóng đá vô địch quốc gia Áo|Giải vô địch quốc gia Áo]]: [[Giải vô địch bóng đá Áo 1968–69|1968–69]], [[Giải vô địch bóng đá Áo 1969–70|1969–70]]
* [[Cúp bóng đá Áo]]: 1970–71 (với Austria Wien), 1980–81 (với Grazer AK)
* Vua phá lưới giải vô địch quốc gia Áo: 1971–72 <ref>{{Chú thích web|url=http://www.oberliga-a.at/fussball_a/torschutzen_a.htm|tựa đề=Österreichs Torschützenkönige|nhà xuất bản=oberliga-a.at|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20070915044827/http://www.oberliga-a.at/fussball_a/torschutzen_a.htm|ngày lưu trữ=15 September 2007|url-status=dead|ngày truy cập=15 August 2008}}</ref>
* [[Cầu thủ ghi bàn xuất sắc nhất giải vô địch bóng đá Bỉ|Vua phá lưới]] [[Giải bóng đá vô địch quốc gia Bỉ|giải hạng nhất Bỉ]]: 1972–73, 1974–75
* Chiếc giày đồng châu Âu (1975)

=== Huấn luyện viên ===

* Á quân [[Cúp bóng đá châu Phi 1994]]

==== Việt Nam ====

* Huy chương bạc [[Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 1998|Tiger Cup 1998]]
* Huy chương đồng [[Cúp Dunhill Việt Nam 1999|Dunhill Cup 1999]]
* Huy chương bạc [[Đại hội Thể thao Đông Nam Á 1999|SEA Games: 1999]] (với đội tuyển Việt Nam), 2003, 2005 (với Olympic Việt Nam)
* Huy chương bạc LG Cup 2000
* Vô địch LG Cup 2003
* Á quân [[Cúp Nhà vua (Thái Lan)|Cúp Nhà vua Thái Lan]]: [[Cúp nhà vua 2006|2006]]
* Lọt vào tứ kết Asian Cup 2007

==== Indonesia ====

* Á quân AFF Cup: 2010, 2016

==== Kuwait ====

* Vô địch Kuwair Cup: 2001
* Vô địch Cúp Thái tử Kuwait: 2001
* Giải vô địch quốc gia Kuwait: Hạng ba (2002), á quân (2003)
* Á quân Emir Cup 2003


==Chú thích==
==Chú thích==
Dòng 134: Dòng 430:
==Liên kết ngoài==
==Liên kết ngoài==
*[http://www.top-com.com/riedl/ Trang chủ của Alfred Riedl]
*[http://www.top-com.com/riedl/ Trang chủ của Alfred Riedl]
*[http://tintuconline.vietnamnet.vn/vn/thethao/129278/ "Ai hiểu Alfred Riedl bằng tôi?"] - câu chuyện của người lái xe cho Alfred Riedl.
*[http://tintuconline.vietnamnet.vn/vn/thethao/129278/ "Ai hiểu Alfred Riedl bằng tôi?"] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20070403140412/http://www.tintuconline.vietnamnet.vn/vn/thethao/129278/ |date=2007-04-03 }} - câu chuyện của người lái xe cho Alfred Riedl.


{{sơ khai nhân vật thể thao}}
{{Huấn luyện viên đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam}}
{{Huấn luyện viên đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam}}


{{Thời gian sống|sinh=1949|tên=Riedl, Alfred}}
{{Thời gian sống|sinh=1949|mất=2020|tên=Riedl, Alfred}}


[[Thể loại:Cầu thủ bóng đá Áo]]
[[Thể loại:Cầu thủ bóng đá nam Áo]]
[[Thể loại:Huấn luyện viên bóng đá Áo]]
[[Thể loại:Huấn luyện viên bóng đá Áo]]
[[Thể loại:Đội tuyển bóng đá quốc gia Áo]]
[[Thể loại:Đội tuyển bóng đá quốc gia Áo]]
Dòng 147: Dòng 442:
[[Thể loại:Huấn luyện viên câu lạc bộ bóng đá Hải Phòng]]
[[Thể loại:Huấn luyện viên câu lạc bộ bóng đá Hải Phòng]]
[[Thể loại:Huấn luyện viên đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam]]
[[Thể loại:Huấn luyện viên đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam]]

[[Thể loại:Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Pháp]]
[[Thể loại:Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Pháp]]
[[Thể loại:Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Bỉ]]
[[Thể loại:Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Áo]]
[[Thể loại:Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Áo]]
[[Thể loại:Cầu thủ bóng đá Belgian First Division A]]
[[Thể loại:Cầu thủ bóng đá FC Metz]]
[[Thể loại:Cầu thủ bóng đá FK Austria Wien]]
[[Thể loại:Cầu thủ bóng đá Ligue 1]]
[[Thể loại:Tiền đạo bóng đá nam]]
[[Thể loại:Cầu thủ bóng đá Royal Antwerp F.C.]]
[[Thể loại:Cầu thủ bóng đá Standard Liège]]

Bản mới nhất lúc 03:30, ngày 30 tháng 8 năm 2024

Alfred Riedl
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Alfred Riedl
Ngày sinh (1949-11-02)2 tháng 11 năm 1949
Nơi sinh Viên, Áo
Ngày mất 8 tháng 9, 2020(2020-09-08) (70 tuổi)
Nơi mất Viên, Áo
Chiều cao 1,84 m (6 ft 12 in)
Vị trí Tiền đạo cắm
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
1961–1967 ATSV Teesdorf
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
1967–1972 Austria Wien 98 (58)
1972–1974 Sint-Truidense 56 (33)
1974–1976 FC Antwerp 54 (34)
1976–1980 Standard Liège 106 (53)
1980 FC Metz 19 (6)
1981–1982 Grazer AK 42 (11)
1982–1984 Wiener Sportclub 52 (15)
1984–1985 VfB Mödling
Tổng cộng 427 (210)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
1975–1978 Áo 4 (0)
Sự nghiệp quản lý
Năm Đội
1990–1991 Áo
1993–1994 Olympique Khouribga
1994–1995 El Zamalek
1997–1998 Liechtenstein
1998–2001 Việt Nam
2001–2003 Al Salmiya
2003–2004 Việt Nam
2004–2005 Palestine
2005–2007 Việt Nam
2008–2009 Hải Phòng
2009–2010 Lào
2010–2011 Indonesia
2011–2012 Lào (giám đốc kĩ thuật)
2012–2013 Visé (trưởng phòng phát triển trẻ)
2013–2014 Indonesia
2015 PSM Makassar
2016 Indonesia
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 15 tháng 8 năm 2008
‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 15 tháng 8 năm 2008

Alfred Riedl (2 tháng 11 năm 1949 - 8 tháng 9 năm 2020) là một cố cầu thủhuấn luyện viên bóng đá người Áo. Khi là cầu thủ, Riedl đã từng thi đấu tại các giải vô địch quốc gia Áo, BỉPháp. Trong thời gian đó, Riedl đã giành chức vô địch Áo, Cúp bóng đá Áo và các danh hiệu vua phá lưới Áo và Bỉ cùng giải thưởng Chiếc giày đồng châu Âu năm 1975. Vai trò huấn luyện cuối cùng của ông là với đội tuyển bóng đá quốc gia Indonesia.

Sự nghiệp cầu thủ

[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Ông bắt đầu thi đấu cho FK Austria Wien, trước khi rời Áo để chơi cho câu lạc bộ Bỉ Sint-Truidense năm 22 tuổi. Sau khi thi đấu tám mùa giải ở Giải hạng nhất Bỉ (hai với Sint-Truiden, hai với Royal Antwerp và bốn với Standard Liège), Riedl đã có một khoảng thời gian ngắn tại FC Metz ở Pháp. Ông đã trở lại Áo sau một mùa giải duy nhất ở đó, thi đấu cho Grazer AK, và sau đó tại Wiener SportclubVfB Admira Wacker Mödling, nơi ông kết thúc sự nghiệp cầu thủ. Ông có hai lần đoạt danh hiệu vua phá lưới của Giải hạng nhất Bỉ (1973, 1975).

Thống kê sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]
Câu lạc bộ Mùa giải Giải quốc gia Cúp[1] Cúp châu Âu[2]
Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn
FK Austria Wien 1967–68 1 0 0 0 0 0
1968–69 19 19 4 2 1 0
1969–70 25 10 2 0 5 2
1970–71 29 13 5 7 4 2
1971–72 21 16 3 5 5 3
Tổng 95 58 14 14 15 7
Sint-Truiden 1972–73 26 16 3 1 0 0
1973–74 30 17 3 4 0 0
Tổng 56 33 6 5 0 0
Royal Antwerp F.C. 1974–75 34 28 7 5 4 1
1975–76 20 6 1 1 0 0
Tổng 54 34 8 6 4 1
Standard Liège 1976–77 32 18 2 3 0 0
1977–78 31 19 4 4 6 1
1978–79 15 3 1 0 0 0
1979–80 27 13 4 1 6 2
Tổng 105 53 11 8 12 3
FC Metz 1980–81 19 6 0 0 0 0
Tổng 19 6 0 0 0 0
Grazer AK 1980–81 17 3 1 1 0 0
1981–82 25 9 4 3 2 1
Tổng 42 12 5 4 2 1
Wiener Sportclub 1982–83 25 6 1 0 3 0
1983–84 27 9 2 0 0 0
Tổng 52 15 3 0 3 0
VfB Admira Wacker Mödling 1984–85 0 0 2 1 - -
Tổng 0 0 2 1 0 0
Tổng cộng 423 211 49 38 36 12

Quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Riedl đã bốn lần khoác áo đội tuyển bóng đá quốc gia Áo, lần đầu tiên là vào tháng 4 năm 1975 trong trận đấu với Hungary. Trước đó ông cũng thi đấu cho các đội U-23 Áo (6 lần) và U-18 (5 lần) của nước này.

Sự nghiệp huấn luyện

[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Ông bắt đầu sự nghiệp huấn luyện của mình ngay sau khi giải nghệ vào năm 1986, đứng đầu ban huấn luyện của câu lạc bộ nghiệp dư Kottingbrunn, nơi ông làm việc từ năm 1986 đến năm 1987. Sau đó, ông gia nhập ban huấn luyện của đội bóng quê hương Austria Wien, và nhận lời mời của người đồng hương Walter Skocik để làm việc tại đội bóng của Ả Rập Xê Út Al-Ittihad. Năm 1989, ông thay thế Helmut Herbert trở thành huấn luyện viên trưởng của Câu lạc bộ thể thao Wiener. Mùa giải tiếp theo, ông rời câu lạc bộ để tiếp quản đội tuyển quốc gia Áo, trước khi ký hợp đồng với Favoritner AC năm 1991. Năm 1993, ông làm huấn luyện viên của câu lạc bộ Maroc Olympique Khouribga, đưa đội bóng đến chung kết Cúp Maroc 1993-94. Năm 1994, ông chuyển đến dẫn dắt câu lạc bộ Ai Cập Al-Zamalek và giúp đội giành ngôi á quân Cúp vô địch các câu lạc bộ châu Phi 1994. Ông dẫn dắt câu lạc bộ này cho đến 1995.

Năm 2001, ông trở thành huấn luyện viên trưởng của câu lạc bộ Khánh Hòa (Việt Nam), sau đó là Al Salmiyah của Kuwait (2001–03) và giành chức vô địch Kuwait Cup và Cúp Thái tử Kuwait cùng năm, đồng thời trở thành á quân giải vô địch quốc gia.

Tháng 10 năm 2008, ông trở về Việt Nam làm huấn luyện viên cho câu lạc bộ bóng đá Hải Phòng. Tuy nhiên, chỉ sau 3 trận ở giải vô địch quốc gia với kết quả không tốt (thua 2/3 trận, trong đó có trận thua trên sân nhà), Riedl đã bị sa thải.[3]

Năm 2012, ông tham gia công tác đào tạo trẻ của câu lạc bộ Visé (Bỉ).

Đội tuyển quốc gia

[sửa | sửa mã nguồn]

Ông đã dẫn dắt nhiều đội tuyển quốc gia, bao gồm U-23 Áo (1990) Áo (1990–92), Liechtenstein (1997–98), Palestine (2004–05), Việt Nam (1998–2001, 2003–04, 2005–07), Lào (2009–10) và Indonesia (2010–16).

Sau World Cup 1990, ông kế thừa vị trí trống của Josef Hickersberger - đồng đội cũ của ông tại Austria Wien, trở thành huấn luyện viên trưởng đội tuyển quốc gia Áo. Cuối năm 1991, ông bị sa thải vì không thể giúp đội tuyển Áo giành vé tham dự Euro 1992. Dưới sự dẫn dắt của Riedl, đội tuyển Áo đã thi đấu 8 trận, chỉ thắng 1, hòa 3 và thua 4 trận.

Từ 27 tháng 6 năm 2009, Riedl đã ký hợp đồng làm huấn luyện viên trưởng cho đội tuyển Lào trong thời gian hai năm.[4] Sau khi bị Indonesia sa thải khỏi chức danh huấn luyện viên đội tuyển Indonesia năm 2011, ông được bổ nhiệm làm huấn luyện viên đội tuyển U-23 quốc gia Lào tại SEA Games 2011 diễn ra ở Indonesia. Sau khi SEA Games kết thúc, hợp đồng của Riedl không được phía Lào gia hạn.

Ngày 4 tháng 5 năm 2010, Alfred Riedl được bổ nhiệm làm huấn luyện viên của đội tuyển quốc gia và U-23 Indonesia.[5] Ông đã dẫn dắt đội tuyển quốc gia Indonesia giành ngôi á quân AFF Cup 2010. Vào ngày 13 tháng 7 năm 2011, ông bị sa thải vì vướng phải tranh chấp hợp đồng với Hiệp hội bóng đá Indonesia (PSSI).[6][7] Ông cho rằng mình mất việc vì động cơ chính trị và tính đến khả năng khởi kiện PSSI lên FIFA nếu không được đền bù hợp đồng.[8]

Tháng 12 năm 2013, Riedl được tái bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng đội tuyển quốc gia Indonesia bằng một bản hợp đồng 3 năm.[9][10][11] Hợp đồng của ông đã bị chấm dứt theo sự đồng ý của hai bên vào cuối năm 2014, sau khi Indonesia không thể lọt vào vòng loại trực tiếp của AFF Suzuki Cup 2014. Riedl sau đó nhận công việc huấn luyện viên trưởng của PSM Makassar vào đầu năm 2015, nhưng từ chức vào tháng 4 năm đó vì vấn đề sức khỏe.

Rield trở lại làm huấn luyện viên trưởng của Indonesia vào năm 2016 theo bản hợp đồng có thời hạn một năm, và lần này ông đã dẫn dắt Indonesia đến trận chung kết AFF Cup 2016, lập lại thành tích năm 2010. Sau khi Indonesia để thua Thái Lan với tỷ số 2-3 trong trận chung kết, hợp đồng của ông không được PSSI gia hạn.

Việt Nam

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1998, ông trở thành huấn luyện viên người nước ngoài thứ tư của đội tuyển Việt Nam. Tuy chỉ nắm chức vụ này trong 2 năm, Riedl đã đưa đội tuyển 2 lần cán đích ở vị trí á quân của khu vực (Tiger Cup 1998SEA Games 1999).

Năm 2001, Alfred Riedl là huấn luyện viên trưởng của câu lạc bộ bóng đá Khánh Hòa trong 4 tháng (từ 1 tháng 2 đến 31 tháng 5)[12]; chức vụ huấn luyện viên trưởng đội tuyển Việt Nam của ông được thay thế bởi Edson Silva Dido. Năm 2002, một lần nữa Riedl trở lại chức vụ này, nhưng sau đó lại nhận lời làm huấn luyện viên cho một câu lạc bộ của Kuwait.

Năm 2005, Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) đã chọn Riedl là huấn luyện viên trưởng đội tuyển Việt Nam.

Tháng 2 năm 2007, Alfred Riedl trải qua một ca ghép thận tại quê hương.[13] Thời gian này, ông giao Mai Đức Chung dẫn dắt đội tuyển Olympic Việt Nam và có lần đầu tiên lọt vào vòng loại thứ 3 môn bóng đá nam Olympic khu vực châu Á.

Tại Asian Cup 2007, cũng là lần tham gia vòng chung kết Asian Cup đầu tiên của đội tuyển Việt Nam, Riedl đã đưa đội vượt qua vòng đấu bảng, lần đầu tiên vào đến tứ kết và dừng bước trước Iraq, nhà vô địch giải đấu sau đó.

Ngày 10 tháng 12 năm 2007, do thành tích yếu kém của đội tuyển Việt Nam tại SEA Games 24 (thất bại trước Myanmar trên chấm 11m), dưới sức ép của Liên đoàn bóng đá Việt Nam và người hâm mộ, Afred Riedl đã từ chức huấn luyện viên trưởng đội tuyển bóng đá Việt Nam.[14]

Tổng cộng, Alfred Riedl đã 3 lần dẫn dắt các đội tuyển Việt Nam và là huấn luyện viên ngoại thành công nhất của bóng đá Việt Nam trước thời Henrique Calisto.[15]

Qua đời

[sửa | sửa mã nguồn]

Riedl mất tại Áo vào ngày 8 tháng 9 năm 2020 tại Áo vì bệnh ung thư.[16][17]

Danh hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Cầu thủ

[sửa | sửa mã nguồn]

Huấn luyện viên

[sửa | sửa mã nguồn]

Việt Nam

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Á quân AFF Cup: 2010, 2016
  • Vô địch Kuwair Cup: 2001
  • Vô địch Cúp Thái tử Kuwait: 2001
  • Giải vô địch quốc gia Kuwait: Hạng ba (2002), á quân (2003)
  • Á quân Emir Cup 2003

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Cúp Bóng đá Áo, Cúp Bóng đá Bỉ
  2. ^ Cúp C1 châu Âu, Cúp UEFA, Cúp các câu lạc bộ đoạt cúp bóng đá quốc gia châu Âu, Intertoto Cup.
  3. ^ “Hai Phong fires coach Riedl”. VietNamNet Bridge. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2009.
  4. ^ “Neuer Job für Alfred Riedl”. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2009.
  5. ^ AFC website
  6. ^ “HLV Alfred Riedl bị LĐBĐ Indonesia sa thải”. Báo điện tử VnExpress. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2022.
  7. ^ The Jakarta Post: PSSI Fires Riedl Appoints New Coach Lưu trữ 15 tháng 9 2011 tại Wayback Machine
  8. ^ News, V. T. C. (15 tháng 7 năm 2011). “Bị Indonesia sa thải, Alfred Riedl dọa kiện lên FIFA”. Báo điện tử VTC News. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2022.
  9. ^ “Alfred Riedl dapat kontrak bersyarat dari PSSI-BTN”. 7 tháng 12 năm 2013.
  10. ^ “Alfred Riedl wieder Teamchef”. 8 tháng 12 năm 2013.
  11. ^ “Indonesia reappoint Riedl with AFF Championship ultimatum | Goal.com”.
  12. ^ hlv Riedl: "Tôi sẽ huấn luyện đội Khánh Hòa trong 4 tháng" trên VnExpress ngày 12/1/2001. Lưu trữ 2007-12-18 tại Wayback Machine
  13. ^ “Riedl-VFF: Đã sẵn sàng cho một cuộc chia tay!”. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2007.
  14. ^ Huấn luyện viên Riedl chấp thuận từ chức
  15. ^ “HLV Alfred Riedl qua đời”. Báo điện tử VnExpress. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2022.
  16. ^ “Riedl loses cancer fight, Kiatisak hails Austrian”. Bangkok Post. 10 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2020.
  17. ^ “Former Indonesian national team soccer coach Alfred Riedl dies at 70”. The Jakarta Post. 8 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2020.
  18. ^ “Österreichs Torschützenkönige”. oberliga-a.at. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2008.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]