Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trịnh Khắc Tang”
n r2.7.1) (Bot: Thêm ru:Чжэн Кэцзан |
n Gỡ bản mẫu lỗi thời; sửa cách trình bày |
||
(Không hiển thị 17 phiên bản của 13 người dùng ở giữa) | |||
Dòng 1: | Dòng 1: | ||
{{Thông tin nhân vật |
|||
{{ChineseText}} |
|||
⚫ | |||
{{Infobox Person |
|||
⚫ | |||
| birth_date = [[1664]] |
| birth_date = [[1664]] |
||
| birth_place = [[Đài Loan]] |
| birth_place = [[Đài Loan]] |
||
Dòng 10: | Dòng 9: | ||
| parents = [[Trịnh Kinh]] (鄭經) (Cha)<br/>Đường Thị (唐氏) (Mẹ) |
| parents = [[Trịnh Kinh]] (鄭經) (Cha)<br/>Đường Thị (唐氏) (Mẹ) |
||
| children = |
| children = |
||
| allegiance |
| allegiance = [[Nam Minh]] |
||
| nationality |
| nationality = [[Vương triều họ Trịnh|Vương quốc Đông Ninh]] |
||
| ethnicity |
| ethnicity = |
||
| citizenship |
| citizenship = |
||
| other_names |
| other_names = Khâm Xá (錦舍) |
||
| title |
| title = [[Duyên Bình Quận vương]] (延平郡王) <ref>Carioti, "The Zhengs' Maritime Power in the International Context of the 17th Century Far East Seas", p. 52.</ref> |
||
| successor |
| successor = [[Trịnh Khắc Sảng]] (鄭克塽) |
||
| relations |
| relations = [[Trịnh Chi Long]] (鄭芝龍) (Ông)<br/>[[Tagawa Matsu|Tagawa]] (Bà)<br/>Tagawa Shichizaemon (Cậu) |
||
}} |
}} |
||
'''Trịnh Khắc Tang''' ( |
'''Trịnh Khắc Tang''' ({{zh|t=鄭克{{Tích tự|𡒉|trên 臧 dưới 土}}|s=郑克{{Tích tự|𡒉|trên 臧 dưới 土}}|p=Zhèng Kè Zāng}}) ([[1664]] – [[1681]]) lúc nhỏ tên '''Khâm''', thường gọi là '''Khâm Xá''', là con trưởng của [[Trịnh Kinh]], do người thiếp của ông sinh ra. |
||
==Tiểu sử== |
== Tiểu sử == |
||
Lúc Trịnh Khắc Tang vừa sinh ra, có kẻ truyền miệng bảo rằng Chiêu Nương giả trang việc mang thai, thực ra là lấy con của tên đồ tể Tương Mỗ họ Lý mà nuôi nấng dưỡng dục, nhưng đích thân Trịnh Kinh tận mắt chứng kiến con mình chào đời, cho nên không mấy ai tin vào lập luận này.<ref>Uất Vĩnh Hòa, ''Trần liệt phụ truyện'' và ''Tỳ hải ký du'', trang 52</ref> |
Lúc Trịnh Khắc Tang vừa sinh ra, có kẻ truyền miệng bảo rằng Chiêu Nương giả trang việc mang thai, thực ra là lấy con của tên đồ tể Tương Mỗ họ Lý mà nuôi nấng dưỡng dục, nhưng đích thân Trịnh Kinh tận mắt chứng kiến con mình chào đời, cho nên không mấy ai tin vào lập luận này.<ref>Uất Vĩnh Hòa, ''Trần liệt phụ truyện'' và ''Tỳ hải ký du'', trang 52</ref> |
||
Năm [[Vĩnh Lịch (Nam Minh)|Vĩnh Lịch]] thứ 28 ([[1674]]) Trịnh Kinh tây chinh, [[Trần Vĩnh Hoa]] làm Tổng chế Đông Ninh, ở lại phòng thủ [[Đài Loan]]. [[Tháng 4]] năm Vĩnh Lịch thứ 33 ([[1679]]) Trần Vĩnh Hoa biểu thị thỉnh cầu cho Khắc Tang làm [[Giám quốc]], Trịnh Kinh đồng ý, phái lễ quan [[Trịnh Bân]] mang chỉ dụ đến Đài Loan, lập Trịnh Khắc Tang làm Giám quốc, lại sai người khắc con dấu Giám quốc thế tôn,<ref>Hạ Lâm, ''Mân hải kỷ yếu'', trang 61</ref> giao cho Khắc Tang phê duyệt công văn, mọi việc cha giao cho ông đều chấp hành nghiêm ngặt, rất giống phong cách của [[Trịnh Thành Công]]. Thêm vào đó ông còn là con rể của Trần Vĩnh Hoa, công việc phán quyết cả thảy đều nhận được sự dạy dỗ của Trần Vĩnh Hoa, dù cho vi phạm pháp luật của tông thất họ Trịnh, ông rất hiếm khi tha thứ,<ref>Uất Vĩnh Hòa, ''Trần liệt phụ truyện'' và ''Tỳ hải ký du'', trang 53</ref> vì thế mà bị các em Trịnh Kinh và [[Phùng Tích Phạm]] căm ghét. |
Năm [[Vĩnh Lịch (Nam Minh)|Vĩnh Lịch]] thứ 28 ([[1674]]) Trịnh Kinh tây chinh, [[Trần Vĩnh Hoa]] làm Tổng chế Đông Ninh, ở lại phòng thủ [[Đài Loan]]. [[Tháng tư|Tháng 4]] năm Vĩnh Lịch thứ 33 ([[1679]]) Trần Vĩnh Hoa biểu thị thỉnh cầu cho Khắc Tang làm [[Giám quốc]], Trịnh Kinh đồng ý, phái lễ quan [[Trịnh Bân]] mang chỉ dụ đến Đài Loan, lập Trịnh Khắc Tang làm Giám quốc, lại sai người khắc con dấu Giám quốc thế tôn,<ref>Hạ Lâm, ''Mân hải kỷ yếu'', trang 61</ref> giao cho Khắc Tang phê duyệt công văn, mọi việc cha giao cho ông đều chấp hành nghiêm ngặt, rất giống phong cách của [[Trịnh Thành Công]]. Thêm vào đó ông còn là con rể của Trần Vĩnh Hoa, công việc phán quyết cả thảy đều nhận được sự dạy dỗ của Trần Vĩnh Hoa, dù cho vi phạm pháp luật của tông thất họ Trịnh, ông rất hiếm khi tha thứ,<ref>Uất Vĩnh Hòa, ''Trần liệt phụ truyện'' và ''Tỳ hải ký du'', trang 53</ref> vì thế mà bị các em Trịnh Kinh và [[Phùng Tích Phạm]] căm ghét. |
||
Năm Vĩnh Lịch thứ 34 ([[1680]]), Trịnh Kinh rút về Đài Loan, mọi việc chính sự đều giao cho Trịnh Khắc Tang xử lý, việc phê duyệt công văn vẫn tiếp tục như cũ. [[Tháng |
Năm Vĩnh Lịch thứ 34 ([[1680]]), Trịnh Kinh rút về Đài Loan, mọi việc chính sự đều giao cho Trịnh Khắc Tang xử lý, việc phê duyệt công văn vẫn tiếp tục như cũ. [[Tháng một|Tháng Giêng]] năm Vĩnh Lịch thứ 35 ([[1681]]), Trịnh Kinh tạ thế, trước khi qua đời đã trao ấn kiếm cho con trưởng Trịnh Khắc Tang, ủy thác lại cho bộ tướng [[Lưu Quốc Hiên]]: "''tài cán con ta, rất có hy vọng, ngươi hãy phò tá lấy nó, dù ta có chết ở dưới nơi chín suối cũng yên lòng mà nhắm mắt''".<ref>Vương Hạo Nhất, ''Tại miếu khẩu thuyết thư'', trang 147</ref> Các em Trịnh Kinh và Phùng Tích Phạm đều không muốn Trịnh Khắc Tang kế thừa, dự định ủng hộ lập Trịnh Khắc Sưởng, bèn thuyết phục người vợ họ Đổng của Trịnh Thành Công ở [[Bắc Viên Biệt quán]] bãi bỏ chức vị Giám quốc của Trịnh Khắc Tang, nhưng Trịnh Khắc Tang từ chối giao lại ấn tín. Bọn Phùng Tích Phạm liền vu cáo ông phản lại di nguyện của thân sinh Trịnh Kinh, phái người tới treo cổ cho đến chết (có thuyết nói là tự sát),<ref>Cái chết của Trịnh Khắc trong ''Tang Mân hải kỷ yếu'' và ''Hải Thượng kiến văn lục'' nói là bị treo cổ chết, nhưng trong ''Tỳ hải ký du'' và ''Lộc tiều kỷ văn'' lại nói là bị ép phải tự sát</ref> người vợ họ Trần nghe tin chồng mất, thân đang mang thai cũng tuyệt thực mà chết theo.<ref>Vương Hạo Nhất, ''Tại miếu khẩu thuyết thư''</ref> |
||
[[Miếu Duyên Bình Quận vương]] ở [[Đài Nam]] hiện nay có treo [[câu đối]] nhằm tưởng nhớ vợ chồng Trịnh Khắc Tang, câu đối ghi: "''Chồng chết vợ cũng mất, vua mất [[Nhà Minh|Minh]] cũng mất theo''". |
[[Miếu Duyên Bình Quận vương]] ở [[Đài Nam]] hiện nay có treo [[câu đối]] nhằm tưởng nhớ vợ chồng Trịnh Khắc Tang, câu đối ghi: "''Chồng chết vợ cũng mất, vua mất [[Nhà Minh|Minh]] cũng mất theo''". |
||
== |
== Tham khảo == |
||
{{ |
{{Tham khảo|1}} |
||
{{s-start}} |
{{s-start}} |
||
Dòng 40: | Dòng 40: | ||
{{end}} |
{{end}} |
||
[[Thể loại:Người họ Trịnh tại Trung Quốc]] |
|||
{{DEFAULTSORT:Trịnh Khắc Tang}} |
|||
[[Thể loại: |
[[Thể loại:Người Đài Loan gốc Mân Nam]] |
||
[[Thể loại: |
[[Thể loại:Sinh năm 1664]] |
||
[[Thể loại: |
[[Thể loại:Mất năm 1681]] |
||
[[Thể loại:Sinh năm 1662]] |
|||
[[Thể loại:Mất năm 1781]] |
|||
[[ko:정극장]] |
|||
[[Thể loại:Lịch sử Đài Loan]] |
|||
[[ru:Чжэн Кэцзан]] |
|||
[[zh:鄭克𡒉]] |
Bản mới nhất lúc 15:30, ngày 22 tháng 11 năm 2024
Trịnh Khắc Tang 鄭克𡒉 | |
---|---|
Sinh | 1664 Đài Loan |
Mất | 1681 Phủ Thừa Thiên, Đài Loan |
Quốc tịch | Vương quốc Đông Ninh |
Tên khác | Khâm Xá (錦舍) |
Chức vị | Duyên Bình Quận vương (延平郡王) [1] |
Kế nhiệm | Trịnh Khắc Sảng (鄭克塽) |
Phối ngẫu | Trần Thị (陳氏) |
Cha mẹ | Trịnh Kinh (鄭經) (Cha) Đường Thị (唐氏) (Mẹ) |
Người thân | Trịnh Chi Long (鄭芝龍) (Ông) Tagawa (Bà) Tagawa Shichizaemon (Cậu) |
Trịnh Khắc Tang (giản thể: 郑克𡒉; phồn thể: 鄭克𡒉; bính âm: Zhèng Kè Zāng) (1664 – 1681) lúc nhỏ tên Khâm, thường gọi là Khâm Xá, là con trưởng của Trịnh Kinh, do người thiếp của ông sinh ra.
Tiểu sử
[sửa | sửa mã nguồn]Lúc Trịnh Khắc Tang vừa sinh ra, có kẻ truyền miệng bảo rằng Chiêu Nương giả trang việc mang thai, thực ra là lấy con của tên đồ tể Tương Mỗ họ Lý mà nuôi nấng dưỡng dục, nhưng đích thân Trịnh Kinh tận mắt chứng kiến con mình chào đời, cho nên không mấy ai tin vào lập luận này.[2]
Năm Vĩnh Lịch thứ 28 (1674) Trịnh Kinh tây chinh, Trần Vĩnh Hoa làm Tổng chế Đông Ninh, ở lại phòng thủ Đài Loan. Tháng 4 năm Vĩnh Lịch thứ 33 (1679) Trần Vĩnh Hoa biểu thị thỉnh cầu cho Khắc Tang làm Giám quốc, Trịnh Kinh đồng ý, phái lễ quan Trịnh Bân mang chỉ dụ đến Đài Loan, lập Trịnh Khắc Tang làm Giám quốc, lại sai người khắc con dấu Giám quốc thế tôn,[3] giao cho Khắc Tang phê duyệt công văn, mọi việc cha giao cho ông đều chấp hành nghiêm ngặt, rất giống phong cách của Trịnh Thành Công. Thêm vào đó ông còn là con rể của Trần Vĩnh Hoa, công việc phán quyết cả thảy đều nhận được sự dạy dỗ của Trần Vĩnh Hoa, dù cho vi phạm pháp luật của tông thất họ Trịnh, ông rất hiếm khi tha thứ,[4] vì thế mà bị các em Trịnh Kinh và Phùng Tích Phạm căm ghét.
Năm Vĩnh Lịch thứ 34 (1680), Trịnh Kinh rút về Đài Loan, mọi việc chính sự đều giao cho Trịnh Khắc Tang xử lý, việc phê duyệt công văn vẫn tiếp tục như cũ. Tháng Giêng năm Vĩnh Lịch thứ 35 (1681), Trịnh Kinh tạ thế, trước khi qua đời đã trao ấn kiếm cho con trưởng Trịnh Khắc Tang, ủy thác lại cho bộ tướng Lưu Quốc Hiên: "tài cán con ta, rất có hy vọng, ngươi hãy phò tá lấy nó, dù ta có chết ở dưới nơi chín suối cũng yên lòng mà nhắm mắt".[5] Các em Trịnh Kinh và Phùng Tích Phạm đều không muốn Trịnh Khắc Tang kế thừa, dự định ủng hộ lập Trịnh Khắc Sưởng, bèn thuyết phục người vợ họ Đổng của Trịnh Thành Công ở Bắc Viên Biệt quán bãi bỏ chức vị Giám quốc của Trịnh Khắc Tang, nhưng Trịnh Khắc Tang từ chối giao lại ấn tín. Bọn Phùng Tích Phạm liền vu cáo ông phản lại di nguyện của thân sinh Trịnh Kinh, phái người tới treo cổ cho đến chết (có thuyết nói là tự sát),[6] người vợ họ Trần nghe tin chồng mất, thân đang mang thai cũng tuyệt thực mà chết theo.[7]
Miếu Duyên Bình Quận vương ở Đài Nam hiện nay có treo câu đối nhằm tưởng nhớ vợ chồng Trịnh Khắc Tang, câu đối ghi: "Chồng chết vợ cũng mất, vua mất Minh cũng mất theo".
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Carioti, "The Zhengs' Maritime Power in the International Context of the 17th Century Far East Seas", p. 52.
- ^ Uất Vĩnh Hòa, Trần liệt phụ truyện và Tỳ hải ký du, trang 52
- ^ Hạ Lâm, Mân hải kỷ yếu, trang 61
- ^ Uất Vĩnh Hòa, Trần liệt phụ truyện và Tỳ hải ký du, trang 53
- ^ Vương Hạo Nhất, Tại miếu khẩu thuyết thư, trang 147
- ^ Cái chết của Trịnh Khắc trong Tang Mân hải kỷ yếu và Hải Thượng kiến văn lục nói là bị treo cổ chết, nhưng trong Tỳ hải ký du và Lộc tiều kỷ văn lại nói là bị ép phải tự sát
- ^ Vương Hạo Nhất, Tại miếu khẩu thuyết thư