Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhà Minh”
Không có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 176: | Dòng 176: | ||
Nhiều người cho rằng Minh Thái Tổ muốn tập trung quyền lực tuyệt đối trong tay mình. Loại bỏ chức vụ [[Tể tướng]] và như vậy cũng loại bỏ luôn sự chống đối có thể có đối với các ông vua bất tài. Tuy nhiên vị trí tể tướng lại được thay thế bởi một chức vụ khác được gọi là [[Đại học sĩ]]. Ray Huong - giáo sư State University - cho rằng bề ngoài các đại học sĩ dường như không quyền hành gì nhưng thực tế nắm nhiều ảnh hưởng phía sau ngai vàng bởi uy tín và sự tin tưởng của dân chúng dành cho họ. Các đại học sĩ có thể đóng vai trò trung gian giữa hoàng đế và quan lại và như vậy có thể làm cân bằng và ổn định các lực lượng trong triều đình. |
Nhiều người cho rằng Minh Thái Tổ muốn tập trung quyền lực tuyệt đối trong tay mình. Loại bỏ chức vụ [[Tể tướng]] và như vậy cũng loại bỏ luôn sự chống đối có thể có đối với các ông vua bất tài. Tuy nhiên vị trí tể tướng lại được thay thế bởi một chức vụ khác được gọi là [[Đại học sĩ]]. Ray Huong - giáo sư State University - cho rằng bề ngoài các đại học sĩ dường như không quyền hành gì nhưng thực tế nắm nhiều ảnh hưởng phía sau ngai vàng bởi uy tín và sự tin tưởng của dân chúng dành cho họ. Các đại học sĩ có thể đóng vai trò trung gian giữa hoàng đế và quan lại và như vậy có thể làm cân bằng và ổn định các lực lượng trong triều đình. |
||
== Suy tàn == |
|||
[[Tập tin:Yongle-Emperor1.jpg|phải|nhỏ|200px|Chân dung hoàng đế Vĩnh Lạc, tức [[Minh Thành Tổ]] (1402 - 1424)]] |
|||
[[Minh Thành Tổ|Thành Tổ]] Chu Đệ, niên hiệu Vĩnh Lạc, là một người mạnh mẽ nên ông có khả năng tiếp nối chính sách ngoại giao của vua cha. Năm 1407, Thành Tổ cho quân xâm lược [[Đại Ngu]], mở đầu thời kỷ [[Bắc thuộc lần 4|Bắc thuộc lần thứ tư]] trong [[lịch sử Việt Nam]]. Đến năm 1428, quân Minh bị đánh đuổi, ngân khố nhà Minh gặp không ít mất mát; năm 1431 triều đại [[nhà Lê sơ|nhà Lê]] của [[Đại Việt]] được công nhận là một quốc gia triều cống độc lập.<ref name="fairbank goldman 2006 138">Fairbank & Goldman (2006), 138.</ref> |
|||
Tuy nhiên, những người kế tục Thành Tổ không có nhiều ảnh hưởng trên những công việc đối ngoại, điều này khiến Quân đội Đế quốc giảm sút nhiều sức mạnh. Nếu như ở phía nam người Việt giành lại độc lập năm 1427, thì ở phía bắc người Mông Cổ nhanh chóng tìm lại sức mạnh của mình. Bắt đầu từ khoảng năm 1445, người Ngõa Thích (Oirat) với vị thủ lĩnh mới của họ là Dã Tiên (Esen Taiji), đã trở thành một mối đe dọa quân sự đối với Trung Quốc. |
|||
[[Minh Anh Tông]] (Chu Kỳ Trấn), do sự chi phối của thái giám [[Vương Chấn]], đã đích thân chỉ huy một chiến dịch tấn công người Oirat vào năm Chính Thống thứ 14 (1449), nhưng chiến dịch này lại trở thành một thảm họa cho Trung Quốc khi quân đội của họ bị tiêu diệt còn nhà vua bị bắt sống. Sau này ở thời Gia Tĩnh, đến lượt thủ đô của đế quốc rơi vào tay người Mông Cổ. |
|||
Cùng lúc ấy, những tên cướp biển Nhật Bản tiến hành những cuộc cướp bóc dọc bờ biển - những vùng bờ biển này rộng lớn tới mức nó hầu như không thể được bảo vệ bởi quân đội triều đình. Sau đó, người Nhật dưới sự lãnh đạo của [[Toyotomi Hideyoshi]] bắt đầu lập kế hoạch chinh phục Triều Tiên và Trung Quốc. Tuy đánh bại được quân Nhật nhưng nhà Minh phải chịu những tổn thất lớn về tài chính. Tới những năm 1610, nhà Minh trên thực tế đã mất quyền kiểm soát vùng đông bắc Trung Quốc. Một bộ lạc hậu duệ của [[nhà Kim]] trước kia nhanh chóng mở rộng lãnh thổ về phía nam tới tận [[Sơn Hải Quan]], tức là ngay đối diện [[Vạn Lý Trường Thành]]. |
|||
Sự suy tàn của nhà Minh trở nên rõ rệt hơn ở nửa sau giai đoạn cai trị của họ. Đa phần các vua nhà Minh không quan tâm tới triều chính và quyền lực tối cao có lúc rơi vào tay của những quan lại trong triều, có lúc lại rơi vào tay các hoạn quan. Thêm vào đó, những cuộc xung đột nội bộ giữa các quan lại trong triều càng khiến cho giới hoạn quan có cơ hội lũng đoạn triều đình. Những vụ việc như vậy xảy ra thường xuyên cho tới tận khi nhà Minh chấm dứt. |
|||
Các nhà sử học còn tranh cãi về sự "tiến bộ" khá chậm chạp của chủ nghĩa trọng thương và công nghiệp hoá theo kiểu châu Âu từ thời nhà Minh. Vấn đề này đặc biệt đáng quan tâm, nếu ta thấy sự tương đương giữa mức độ thương mại hóa của kinh tế nhà Minh, ở thời được gọi là "tư bản phôi thai" ở Trung Quốc, với chủ nghĩa tư bản thương nghiệp ở phương Tây. Vì thế, các nhà sử học đã tìm cách giải thích tại sao Trung Quốc không "tiến bộ" ở mức tương đương trong thế kỷ cuối cùng của nhà Minh. Tuy nhiên, ở thời điểm đầu thế kỷ 21, một số giả thuyết dẫn tới cuộc tranh luận đã bị phản bác. Các nhà sử học kinh tế như Kenneth Pomeranz đã bắt đầu đưa ra lý lẽ cho rằng về mặt kỹ thuật và kinh tế Trung Quốc tương đương với châu Âu cho tới tận năm 1750 và rằng sự khác biệt xảy ra là vì những nguyên nhân toàn cầu như khả năng tiếp cận tới các nguồn tài nguyên thiên nhiên từ thế giới mới. |
|||
Dù sao, đa số tranh luận tập trung vào sự đối nghịch về chính trị và các hệ thống kinh tế giữa [[phương Đông|Đông]] và [[phương Tây|Tây]]. Cho rằng giả thuyết gây ra điều đó là những sự chuyển đổi kinh tế, gồm cả những thay đổi xã hội, và chúng lại dẫn tới những hậu quả về chính trị, thì ta có thể hiểu tại sao sự lớn mạnh của chủ nghĩa tư bản, một hệ thống kinh tế trong đó vốn được đưa vào sản xuất để tạo ra nhiều vốn hơn, là một cái gì đó tương tự lực đẩy tạo nên sự trỗi dậy của châu Âu hiện đại. Dù thế nào chăng nữa, ta có thể tìm thấy những dấu vết Chủ nghĩa tư bản ở nhiều giai đoạn khác nhau trong lịch sử phương Tây. Chủ nghĩa tư bản thương mại là giai đoạn đầu tiên và rõ ràng liên kết với các khuynh hướng lịch sử ở Trung Quốc thời nhà Minh, như các khám phá địa lý, thuộc địa hoá, phát minh khoa học, và sự tăng trưởng trong thương mại giữa các nước. Nhưng ở [[châu Âu]], các triều đình thường bảo vệ và khuyến khích tầng lớp giàu có [[tư bản]], đa phần là thương nhân, thông qua các chính sách nhà nước, các khoản trợ cấp, và những điều khoản độc quyền như [[Công ty Đông Ấn Anh]]. Các nước theo chế độ [[quân chủ chuyên chế]] ở thời kỳ này thường coi những khoản lợi nhuận tiềm năng mà các nhà buôn thu được là nhân tố hỗ trợ cho sự mở rộng và tập trung hóa quốc gia của họ. |
|||
Vấn đề này thậm chí còn bất thường hơn nếu ta cho rằng trong thế kỷ cuối cùng của nhà Minh, một nền kinh tế tiền tệ đích thực đã xuất hiện cùng với những thương vụ ở mức độ lớn cũng như những cơ sở công nghiệp tư nhân và nhà nước, ví dụ như những trung tâm dệt may lớn ở phía đông nam. Ở một số khía cạnh, vấn đề này là trung tâm trong những cuộc tranh luận về sự suy tàn của Trung Quốc so với phương Tây hiện đại ít nhất cho đến thời [[cách mạng vô sản]]. Các nhà sử học [[Chủ nghĩa Marx|Marxist]] ở Trung Quốc, đặc biệt ở [[thập niên 1970]] coi thời Minh là một trong những giai đoạn "tư bản sơ khai", một sự miêu tả có vẻ khá chính xác, nhưng không giải thích được sự suy tàn của thương mại và sự tăng cường các biện pháp quản lý thắt chặt thương mại thời nhà Minh. Vì vậy, các nhà sử học Marxist mặc nhiên cho rằng chủ nghĩa trọng thương kiểu châu Âu và công nghiệp hóa có thể đã phát triển và nó không liên quan gì tới cuộc chinh phục của [[người Mãn Châu]], sự mở rộng [[chủ nghĩa thực dân]] [[phương Tây]], đặc biệt sau thời của những cuộc [[chiến tranh Nha phiến]]. |
|||
Tuy nhiên các học giả hậu hiện đại ở Trung Quốc đã cho rằng quan điểm này là quá đơn giản hóa và ít nhất cũng không chính xác. Việc ngăn cấm các tàu đi biển, như được chỉ ra, là với ý định kìm chế cướp biển và đã được dỡ bỏ ở giữa thời Minh dưới sức ép mạnh mẽ của tầng lớp quan lại, những người đã chỉ ra những ảnh hưởng xấu của nó tới các vùng kinh tế ven biển. Các nhà sử học đó, gồm Jonathan Spence, Kenneth Pomeranz, và Joanna Waley-Cohen phủ nhận việc Trung Quốc đã hoàn toàn "đóng cửa với bên ngoài" và cho rằng quan điểm đó về nhà Minh là mâu thuẫn với khối lượng tăng trưởng của thương mại và mậu dịch giữa Trung Quốc và Đông Nam Á. Khi người Bồ Đào Nha tới Ấn Độ, họ chứng kiến một mạng lưới thương mại đang phát triển mạnh mẽ và sau đó họ đã theo nó để tới Trung Quốc. Trong [[thế kỷ 16]] những người [[châu Âu]] bắt đầu xuất hiện trên những bờ biển phía đông và tìm ra [[Ma Cao|Macao]], vùng định cư đầu tiên của người phương Tây ở [[Trung Quốc]]. Như đã được ghi chép, từ thời Minh Thái Tổ, vai trò của hoàng đế đã trở nên độc đoán hơn, dù Thái Tổ cần tiếp tục sử dụng cái gọi là Đại học sĩ để hỗ trợ ông trong hàng núi giấy tờ công việc hành chính, gồm cả các bản ghi nhớ (đơn thỉnh nguyện và thư tiến cử tới triều đình), các chỉ dụ trả lời, các báo cáo đủ thể loại, và các bản ghi chép về thuế. |
|||
Không như các vị vua sau này, Minh Thái Tổ hiểu rõ vai trò tiêu cực của các [[hoạn quan]] triều đình như thời [[nhà Tống|Tống]], đã giảm bớt nhiều số lượng của họ, cấm họ tiếp cận với các giấy tờ, nhấn mạnh rằng cần phải để họ mù chữ và hành quyết những kẻ dám bàn tới công việc quốc gia. Dù Thái Tổ có ác cảm lớn với hoạn quan, thậm chí một văn bản tóm lược trong cung của ông đã quy định rằng: "Các hoạn quan không được tham gia chính sự", các hoàng đế về sau này lại khôi phục vai trò của họ trong công việc triều đình. |
|||
Minh Thành Tổ cũng là người ham hoạt động và rất có khả năng trong vai trò nhà cai trị, nhưng một sự sắp đặt những kẻ thừa kế kém cỏi đã được đặt ra. Đầu tiên, dù thời Thái Tổ vẫn giữ một số thói quen Mông Cổ, như trừng phạt thể xác, điều này đã là một sự quá đáng đối với tầng lớp nho sĩ vốn quen với khái niệm cai trị bằng đạo đức ("đức trị"), thời Thành Tổ còn vượt quá các giới hạn đó, hành quyết các gia đình đối thủ chính trị của mình, giết hại tùy tiện hàng nghìn người. Thứ ba, triều đình Thành Tổ hay chế độ [[Đại học sĩ]], là một bộ máy không linh hoạt trong việc củng cố và trở thành một bộ máy không có khả năng hoạt động tốt. Tuy nhiên, trước đó, các hoàng đế có tài hơn đã thông qua hay giám sát tất cả các quyết định do hội đồng này đưa ra. Chính [[Minh Thái Tổ]] nói chung cũng được coi là một vị vua mạnh mẽ, người mang lại sự khởi đầu cho một triều đình mạnh và hiệu quả còn kéo dài tới sau thời đại của ông, nhưng việc tập trung hóa quyền lực đã chứng minh là bất lợi đối với những vị vua tầm thường. |
|||
== Xây dựng Vạn lý trường thành == |
== Xây dựng Vạn lý trường thành == |
Phiên bản lúc 10:21, ngày 25 tháng 4 năm 2016
Đại Minh
|
|||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||||
1368–1644 | |||||||||||
Lãnh thổ nhà Minh năm 1580. | |||||||||||
Vị thế | Đế quốc | ||||||||||
Thủ đô | Nam Kinh (1368–1421) Bắc Kinh (1421–1424) Nam Kinh (1424–1441) Bắc Kinh (1441–1644) | ||||||||||
Ngôn ngữ thông dụng | Tiếng Hoa | ||||||||||
Tôn giáo chính | Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Hồi giáo, Tín ngưỡng dân gian, Công giáo Rôma | ||||||||||
Chính trị | |||||||||||
Chính phủ | Phong kiến tập quyền | ||||||||||
Hoàng đế | |||||||||||
• 1368–1398 | Thái Tổ | ||||||||||
• 1627–1644 | Tư Tông | ||||||||||
Lịch sử | |||||||||||
• Thành lập tại Nam Kinh | 23 tháng 1 1368 | ||||||||||
• Lý Tự Thành chiếm Bắc Kinh | 25 tháng 4 1644 | ||||||||||
• Nhà Nam Minh sụp đổ | 22 tháng 1, 1662 | ||||||||||
Địa lý | |||||||||||
Diện tích | |||||||||||
• 1415[1] | 6,500,000 km2 (3 mi2) | ||||||||||
Dân số | |||||||||||
• 1393 | 65.000.000 | ||||||||||
• 1403 | 66.598.337¹ | ||||||||||
• 1500 | 125.000.000² | ||||||||||
• 1600 | 160.000.000³ | ||||||||||
Kinh tế | |||||||||||
Đơn vị tiền tệ | Tiền xu, tiền giấy (sau này bị bãi bỏ) | ||||||||||
| |||||||||||
Tàn dư nhà Minh trị vì miền Nam Trung Quốc cho tới năm 1662, thời kỳ này được gọi là triều Nam Minh. ¹ Số liệu dựa trên ước tính theo C.J. Peers trong Late Imperial Chinese Armies: 1520-1840 ²Theo A. G. Frank, ReOrient: global economy in the Asian Age, 1998, p. 109 ³Theo A. Maddison, The World Economy Volume 1: A Millennial Perspective Volume 2, 2007, p. 238 |
Một phần của loạt bài về |
Lịch sử Trung Quốc |
---|
|
|
nhà Minh hay triều Minh (chữ Hán: 明朝, Hán Việt: Minh triều; 23 tháng 1 năm 1368 - 25 tháng 4 năm 1644[chú thích 1]) là triều đại cuối cùng do người Hán kiến lập trong lịch sử Trung Quốc. Năm 1368, Chu Nguyên Chương sau khi tiêu diệt thế lực quần hùng tại Ứng Thiên phủ đăng cơ, đặt quốc hiệu Đại Minh[3], do hoàng đế triều Minh mang họ Chu nên còn được gọi là Chu Minh[2]. Đầu thời kiến quốc, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương định đô tại Ứng Thiên phủ (nay là Nam Kinh), đến năm Vĩnh Lạc thứ 19 (1421), Minh Thành Tổ Chu Lệ thiên đô đến Thuận Thiên phủ (nay là Bắc Kinh), kinh sư cũ đổi thành Nam Kinh[2].
Thời kỳ đầu triều Minh, qua chính sách nghỉ ngơi lại sức của Chu Nguyên Chương, quốc lực triều Minh khôi phục nhanh chóng, sử xưng Hồng Vũ chi trị[4]. Đến thời kỳ Minh Thành Tổ Chu Lệ, quốc thế đạt đỉnh, những năm Vĩnh Lạc khoách trương lãnh thổ, còn phái khiển Trịnh Hòa bảy lần hạ Tây Dương, học giả hiện đại gọi là Vĩnh Lạc thịnh thế. Sau đó, thời kỳ Nhân Tông và Tuyên Tông cũng là thời hưng thịnh, sử xưng Nhân Tuyên chi trị. Tuy nhiên, thời kỳ Anh Tông và Cảnh Thái Đế, trải qua sự biến Thổ Mộc bảo, quốc lực trung suy[4]. Sau khi Thế Tông đăng cơ, phát sinh tranh chấp Đại lễ nghị, sau khi thanh trừ thế lực hoạn quan và quyền thần hoàng đế tổng quản triều cương, thực hành Gia Tĩnh tân chính, song sau này không quan tâm triều chính. Sau khi Minh Thế Tông từ trần, trải qua Long Khánh tân chính và Vạn Lịch trung hưng, quốc lực được khôi phục. Trung kỳ thời Thần Tông, hoàng đế dần lơ đãng triều chính, sử xưng Vạn Lịch đãi chính, bắt đầu chính trị hỗn loạn thời vãn Minh. Thời Hi Tông, đám hoạn quan làm loạn triều cương, sau khi Tư Tông kế vị thì bị diệt trừ. Tuy nhiên, do Tư Tông có quyết sách sai lầm, cùng với nội ưu ngoại hoạn, triều Minh cuối cùng mất vào tay Lý Tự Thành vào năm 1644. Sau đó, chính quyền Nam Minh rồi Minh Trịnh tiếp tục tồn tại trong mấy thập niên, kết thúc khi triều Thanh chiếm lĩnh Đài Loan[2].
Lãnh thổ triều Minh bao quát khu vực phía nam Vạn Lý Trường Thành và tỉnh Liêu Ninh hiện nay. Trong những năm đầu, quyền tông chủ của Minh mở rộng đến biển Nhật Bản, Ngoại Hưng An Lĩnh và lưu vực Hắc Long Giang, sau đó suy giảm còn khu vực Liêu Hà. Triều Minh từng đặt cơ cấu ki mi tại Đông Bắc Trung Quốc ngày nay, đông bộ Tân Cương và Tây Tạng.[5] Tuy nhiên, tồn tại tranh nghị lớn về vấn đề triều Minh thực tế thống trị Tây Tạng. Thời kỳ Minh Thành Tổ, triều Minh từng chinh phục và thống trị An Nam (nay là miền bắc Việt Nam) trong một thời gian ngắn[2]. Căn cứ theo "Minh thực lục", nhân khẩu triều Minh đạt đỉnh vào năm Thành Hóa thứ 15 (1479) với hơn 70 triệu người[6], song có nhiều học giả cho rằng đương thời tồn tại giấu giếm hộ khẩu với số lượng lớn, do đó nhận định đỉnh cao nhân khẩu thực tế là trên 100 triệu[7]. Thời Minh, thủ công nghiệp và kinh tế thương phẩm phồn vinh, xuất hiện tập trấn thương nghiệp và manh nha tư bản chủ nghĩa, văn hóa nghệ thuật hiện ra xu thế thế tục hóa[8].
Lịch sử
Kiến quốc và thống nhất
Cuối thời Nguyên, quan viên tham ô, quý tộc hủ hóa, triều chính hủ bại. Nhằm loại trừ thâm hụt ngân sách, triều đình tăng nặng thu thuế, đồng thời in tùy tiện lượng lớn tiền mới "Chí chính bảo sao". Kết quả gây nên lạm phát, cộng thêm các loại thiên tai diễn ra thường xuyên khiến dân chúng khó mà sinh tồn. Năm 1351, Nguyên Thuận Đế phái Giả Lỗ trị lý Hoàng Hà, trưng dụng 20 vạn người từ các địa phương. Tháng năm cùng năm, tín đồ Bạch Liên giáo là Hàn Sơn Đồng và Lưu Phúc Thông kích động dân chúng chịu nhiều tổn thất do thiên tai và bị đốc công ngược đãi tiến hành phản Nguyên khởi sự. Họ lập nên Quân Khăn Đỏ, hay Hồng Cân quân, chiếm cứ các khu vực Hà Nam và An Huy[9]. Quân Khăn Đỏ cùng nghĩa quân các địa phương liên tiếp khởi sự, thế lực khuếch trương đến khu vực Hoa Trung, Hoa Nam. Sang năm 1352, Quách Tử Hưng thuộc Quân Khăn Đỏ tập hợp dân chúng khởi nghĩa, công chiếm Hào Châu (nay là Phượng Dương, An Huy). Không lâu sau, một người Phượng Dương xuất thân nông dân là Chu Nguyên Chương đi theo Quách Tử Hưng, nhiều lần lập chiến công, được Quách Tử Hưng trọng thị và tín nhiệm. Sau đó, Chu Nguyên Chương rời Hào Châu, phát triển thế lực riêng[9][10].
Năm 1356, Chu Nguyên Chương suất binh chiếm lĩnh Tập Khánh (nay là Nam Kinh, Giang Tô), đổi thành Ứng Thiên phủ, đồng thời chiếm cứ một số địa điểm quân sự trọng yếu nằm quanh đó. Chu Nguyên Chương chấp thuận kiến nghị "cao trúc tường, quảng tích lương, hoãn xưng vương" của mưu sĩ Chu Thăng, trải qua vài năm nỗ lực, thực lực quân sự và kinh tế nhanh chóng lớn mạnh. Năm 1360, Chu Nguyên Chương và một thủ lĩnh khởi nghĩa khác là Trần Hữu Lượng tiến hành giao chiến tại Long Loan thuộc tây bắc Tập Khánh, thế lực Trần Hữu Lượng đại bại và phải đào thoát đến Giang Châu (nay thuộc Cửu Giang, Giang Tây). Năm 1363, thông qua Thủy chiến tại hồ Bà Dương, thế lực Trần Hữu Lượng về cơ bản bị tiêu diệt. Năm 1367, Chu Nguyên Chương tự xưng Ngô Vương, suất quân chiếm lĩnh Bình Giang (nay là Tô Châu, Giang Tô), diệt một thủ lĩnh khởi nghĩa lớn mạnh khác là Trương Sĩ Thành. Cùng năm, Chu Nguyên Chương tiêu diệt Phương Quốc Trân cát cứ tại duyên hải Chiết Giang[9].
Tháng 1 năm 1368, Chu Nguyên Chương xưng đế tại Nam Kinh, tức Minh Thái Tổ, niên hiệu Hồng Vũ, triều Minh được kiến lập. Sau đó, thừa cơ triều đình Nguyên có xung đột nội bộ, quân Minh tiến hành Bắc phạt và Tây chinh, trong cùng năm công chiếm Đại Đô (nay là Bắc Kinh) của Nguyên, triều Nguyên triệt thoát khỏi Trung Nguyên, sử xưng Bắc Nguyên. Sau đó, quân Minh tiêu diệt thế lực Minh Ngọc Trân tại Tứ Xuyên vào năm 1371, đến năm 1381 thì tiêu diệt Lương vương của Nguyên vẫn chiếm cứ Vân Nam. Cuối cùng, đến năm 1368, quân Minh xâm nhập Mạc Bắc (phía bắc sa mạc Gobi) tấn công Bắc Nguyên. Trung Quốc đến đây ổn định[9].
Hoàng quyền tập trung và Kiến Văn tước phiên
Sau khi bình định thiên hạ, Minh Thái Tổ đại phong công thần, song do tính cách đa nghi nên ông có nghi kị với những công thần này. Minh Thái Tổ dựa vào đại án Hồ Duy Dung và Lam Ngọc, gần như đem toàn bộ công thần diệt trừ[11]. Thừa tướng Hồ Duy Dung rất được Chu Nguyên Chương sủng tín, song ngày càng hống hách, tấu chương đại sự trong triều trước tiên phải qua tay ông. Năm 1380, Minh Thái Tổ lấy tội danh chuyên quyền làm càn để giết Hồ Duy Dung cùng những người khác như Ngự sử đại phu Trần Ninh. Năm 1390, có người tố cáo Lý Thiện Trường và Hồ Duy Dung có quan hệ mật thiết, Lý Thiện Trường do đó bị ban chết. Tổng cộng, số người liên lụy là hơn ba vạn người, sử xưng "Hồ Duy Dung án"[11]. Sau đó, Minh Thái Tổ lấy tội danh ngông cuồng hống hách để giết Đại tướng quân Lam Ngọc, hơn một vạn năm nghìn người mất mạng trong tru di diệt tộc, sử xưng "Lam Ngọc án". Cùng với Không ấn án và Quách Hoài án, gọi chung là Minh sơ tứ đại án. Đến lúc này, ngoại trừ Thang Hòa và Cảnh Bỉnh Văn, gần như toàn bộ công thần đã bị giết. Minh Thái Tổ thông qua một loạt phương thức như đả kích công thần, cho đặc vụ đi giám thị mà tăng cường hoàng quyền, khiến trình độ chuyên chế của hoàng đế triều Minh vượt trên các triều đại trước đó tại Trung Quốc[11].
Đầu thời gian kiến quốc, có bộ phận địa chủ và văn nhân không muốn làm quan cống hiến cho triều đình mới, do đó chọn các cách thức như tự sát, tự hủy hoại thân thể, đi lên Mạc Bắc, ẩn cư thâm sơn, hay chém ngón tay, thề không xuất sĩ. Do đó Chu Nguyên Chương thiết lập hình phạt mới, tuyên cáo rằng các sĩ đại phu không phục vụ triều đình là phạm tội, sát hại nhiều học giả không muốn phụng sự triều Minh và đang làm quan cho tân triều, khiến cho các sĩ đại phu có tài năng còn lại rất ít[12][13]. Minh Thái Tổ sau khi tức vị một mặt giảm nhẹ gánh nặng cho nông dân, khôi phục sản xuất kinh tế, cải cách lại trị từ thời Nguyên, trừng trị tham quan, kinh tế xã hội được khôi phục và phát triển, sử xưng Hồng Vũ chi trị.
Minh Thái Tổ phân phong cho các hoàng tử làm vương, để tăng cường biên phòng, che chắn cho hoàng thất. Trong đó, các phiên vương tại phương bắc có thế lực khá mạnh, lớn nhất là thế lực của Tần vương Chu Sảng, Tấn cương Chu Cương và Yên vương Chu Lệ. Nhằm đề phòng trong triều đình có gian thần làm càn, Minh Thái Tổ quy định chư vương có thể dâng thư cho trung ương tróc nã gian thần, khi cần thiết nhận được mật chiếu của hoàng đế, lĩnh binh "tĩnh nạn" (ý là "bình định quốc nạn"). Đồng thời, nhằm đề phòng chư vương quá mạnh khó chế ngự, Minh Thái Tổ cũng đồng ý hoàng đế kế vị sau này khi cần thiết có thể hạ lệnh "tước phiên"[11].
Năm 1398, Minh Thái Tổ từ trần, do Thái tử Chu Tiêu mất sớm nên Hoàng thái tôn Chu Doãn Văn tức vị, niên hiệu Kiến Văn, tức Minh Huệ Tông. Nhằm củng cố hoàng quyền, Minh Huệ Tông cùng với các đại thần thân tín như Tề Thái, Hoàng Tử Trừng mật mưu tước phiên. Chu vương Chu Túc, Đại vương Chu Quế, Tề vương Chu Phù, hay Tương vương Chu Bách trước sau bị phế trừ làm thứ nhân, hoặc bị giết. Đồng thời, Minh Huệ Tông lấy danh nghĩa biên phòng để điều tinh binh của Yên vương đi, chuẩn bị tước trừ Yên vương. Kết quả là Yên vương Chu Lệ theo kiến nghị của Diêu Quảng Hiếu lấy danh nghĩa "thanh quân trắc, tĩnh nội nạn" để khởi binh, cuối cùng nam hạ chiếm lĩnh kinh sư, đó là Tĩnh Nan chi biến. Chu Lệ tức vị, tức Minh Thành Tổ, niên hiệu Vĩnh Lạc. Minh Huệ Tông không rõ tung tích giữa đám cháy lớn trong cung thành[14].
Vĩnh Lạc thịnh thế và Nhân-Tuyên chi trị
Sau Hồng Vũ chi trị, Vĩnh Lạc thịnh thế thời Thành Tổ và Nhân-Tuyên chi trị thời Nhân Tông và Minh Tông là một ttrong các thời kỳ hưng thịnh của triều Minh. Thời kỳ Minh Thành Tổ, quân sự hưng thịnh, trước tiên tiến công An Nam, đưa An Nam vào bản đồ triều Minh, thiết lập Giao Chỉ bố chính ty. Sau đó, Minh Thành Tổ năm lần tự dẫn quân vào Mạc Bắc tiến công Thát Đát và Ngõa Lạt (hai thế lực Mông Cổ sau khi Bắc Nguyên phân liệt). Minh Thành Tổ sách phong Ngõa Lạt tam vương, khiến họ đối lập với Thát Đát, chờ đến sau khi Ngõa Lạt hưng thịnh lại trợ giúp Thát Đát thảo phạt Ngõa Lạt, không để cho bên nào chiếm ưu thế[15]. Đồng thời, Minh Thành Tổ loại bỏ Đại Ninh đô ty, đem Ninh vương Chu Quyền nội thiên Nam Xương, trao cho ba vệ sở Ngột Lương Cáp Mông Cổ là Đóa Nhan, Thái Ninh và Phúc Dư quyền tự trị, song không chấp thuận cho người tam vệ Mông Cổ này dời về phía nam đến khu vực Đại Ninh chăn thả. Minh Thành Tổ tiến hành trấn áp Ngột Lương Cáp Mông Cổ vào năm 1406 và 1422, nhằm duy trì ổn định trong khu vực[16]. Nhằm an phủ các bộ lạc Nữ Chân ở phía đông bắc, Minh Thành Tổ đặt vệ sở tại Hải Tây Nữ Chân (thượng du sông Tùng Hoa) và Kiến Châu Nữ Chân (giữa sông Tùng Hoa, sông Mẫu Đơn) đã quy phụ, đồng thời phái Diệc Thất Cáp an phủ Dã Nhân Nữ Chân tại hạ du Hắc Long Giang. Năm 1407, Diệc Thất Cáp tại khu vực Nô Nhi Can bờ đông hạ du Hắc Long Giang đặt Nô Nhi Can đô ty, khuếch trương cương vực phía đông Đại Minh. Năm 1413, Diệc Thất Cáp thị sát đảo Khố Hiệt (Sakhalin), tuyên bố quyền tông chủ của triều Minh với khu vực này[17]. Minh Thành Tổ thay đổi sách lược ngoại giao bế quan tự thủ của Minh Thái Tổ, từ năm 1405 bắt đầu phái hoạn quan Trịnh Hòa đi Tây Dương, giao thiệp với các quốc gia, tuyên thị uy đức và kiến lập thể chế triều cống, cũng có thuyết cho là nhằm bao vây ngăn chặn Đế quốc Timur tại Tây Á[15]. Trịnh Hòa hạ Tây Dương tổng cộng bảy lần, sáu lần trước trong những năm Vĩnh Lạc và do Minh Thành Tổ phái khiển, thuyền đội Trịnh Hòa ghi dấu trên khắp khu vực Đông Nam Á và Nam Á, còn lập căn cứ tại Malacca. Quy mô của thuyền đội là chưa từng có trước đó, đi xa nhất đến khu vực Somali tại Đông Phi, khuếch đại sức ảnh hưởng của triều Minh đối với các quốc gia Đông Nam Á và ven Ấn Độ Dương.[14].
Trên phương diện văn trị, Minh Thành Tổ cho biên soạn "Vĩnh Lạc đại điển" có quy mô lớn, công trình này có 22.877 quyển, số chữ ước tính có hơn 370 triệu. Căn cứ theo ghi chép, thời Minh chỉ có Hiếu Tông và Thế Tông duyệt đại điển[18]. Ngoài ra, Minh Thành Tổ cũng không cho sao chép khắc in "Vĩnh Lạc đại điển", quyết định chỉ chế tác một phần bản sao, đến năm 1409 thì hoàn thành[19]. Năm 1405, Minh Thành Tổ đổi Bắc Bình thành Bắc Kinh, gọi là 'hành tại', đồng thời thiết lập các nha môn như Bắc Bình quốc tử giám. Năm 1409, Minh Thành Tổ tuần thị Bắc Kinh, tại Bắc Kinh thiết lập lục bộ và đô sát viện, đồng thời thiết lập lăng tẩm cho Từ hoàng hậu tại Bắc Kinh, hiển thị dấu hiệu thiên đô. Trải qua mười mấy năm quy hoạch, Bắc Kinh sơ bộ đạt được phồn vinh. Năm 1416, Minh Thành Tổ công bố ý kiến thiên đô, nhận được tán đồng, năm sau bắt đầu kiến thiết Bắc Kinh trên quy mô lớn. Năm 1420, tuyên cáo hoàn thành công trình, năm sau thiên đô. Vì trong những năm Vĩnh Lạc thiên hạ đại trị, đồng thời lại tận lực khai thác giao lưu hải ngoại, do vậy có học giả gọi giai đoạn này là Vĩnh Lạc thịnh thế. Tuy nhiên, Minh Thành Tổ cho giết nhiều người bất đồng quan điểm, như các cựu thần Hoàng Tử Trừng, Tề Thái đều bị giết[20].
Sau khi Minh Thành Tổ từ trần, trưởng tử là Chu Cao Sí tức vị, tức Minh Nhân Tông, niên hiệu Hồng Hi. Minh Nhân Tông tuổi đã cao, trị vì được gần một năm thì từ trần. Ông thống trị theo thiên hướng bảo thủ, ủy nhiệm các hiền thần như "Tam Dương" (Dương Sĩ Kỳ, Dương Vinh, Dương Phổ) phụ tá triều chính, đình chỉ Trịnh Hòa hạ Tây Dương và chiến tranh đối ngoại để tích lũy dân lực, khích lệ sản xuất, độ lượng trong xét xử, nỗ lực thi hành tiết kiệm. Sau khi Minh Nhân Tông từ trần, trưởng tử là Chu Chiêm Cơ tức vị, là Minh Tuyên Tông, niên hiệu Tuyên Đức. Nhân Tông về cơ bản kế thừa phương châm của phụ thân, thực thi đức chính trị quốc, đồng thời cho tiến hành hạ Tây Dương lần cuối. Minh Tuyên Tông cực kỳ yêu thích mĩ thuật, có tác phẩm truyền thế. Tuy nhiên, trong thời gian ông chấp chính cũng có những điều tệ hại. Do Minh Tuyên Tông thích nuôi dế mèn (tên Hán cổ là "xúc chức"), nhiều quan lại do vậy tranh nhau nịnh hót, nên ông bị gọi là "Xúc Chức thiên tử". Đồng thời, Minh Tuyên Tông đả phá quy củ hoạn quan không được can chính do Thái Tổ truyền lại, một số thái giám như Vương Chấn bắt đầu can chính, là mầm họa của thái giám chuyên quyền thời Minh Anh Tông. Năm 1435, Minh Tuyên Tông từ trần, con là Chu Kỳ Trấn kế vị khi mới chín tuổi, tức Minh Anh Tông, niên hiệu Chính Thống[14].
Thổ Mộc chi biến và Hoằng Trị trung hưng
Minh Anh Tông từ nhỏ đã sủng tín hoạn quan Vương Chấn, khởi đầu hành vi hoạn quan chuyên quyền nghiêm trọng của triều Minh. Năm 1442, người hạn chế quyền thế của Vương Chấn là Trương thái hoàng thái hậu từ trần[21], đương thời Minh Anh Tông gần 15 tuổi, Vương Chấn càng thêm chuyên quyền. Sau khi nguyên lão trọng thần "Tam Dương" từ trần, Vương Chấn chuyên quyền hống hách, triệt hạ biển sắt ghi sắc mệnh cấm chỉ hoạn quan can chính do Thái Tổ lưu lại, Minh Anh Tông đối với nhân vật này càng tín nhiệm hơn[22].
Năm 1435, bộ lạc Ngõa Lạt của tộc Mông Cổ dần lớn mạnh, thường sinh sự tại khu vực biên cảnh của triều Minh. Năm 1449, thủ lĩnh Ngõa Lạt là Dã Tiên suất quân nam hạ phạt Minh. Vương Chấn khuyến khích khiến Minh Anh Tông lĩnh hai mươi vạn binh sĩ ngự giá thân chinh. Sau khi đại quân dời kinh thành, binh sĩ thiếu lương kiệt sức. Đầu tháng tám, đại quân mới đến Đại Đồng. Vương Chấn được báo các lộ quân tiền tuyến chiến bại, sợ không dám chiến, bèn lệnh triệt binh. Quân Minh về đến Thổ Mộc bảo (nay thuộc huyện Hoài Lai, Hà Bắc) thì bị quân Ngõa Lạt đuổi kịp, binh sĩ tử thương quá bán, đại thần tùy tòng có hơn 50 người trận vong. Minh Anh Tông đột vây bất thành và bị bắt, Tướng quân Phàn Trung tức giận giết Vương Chấn[23], sử xưng Thổ Mộc bảo chi biến, là một bước ngoặt chuyển từ thịnh sang suy của triều Minh[24].
Sau khi tin tức từ Thổ Mộc bảo truyền đến Bắc Kinh, triều đình hỗn loạn. Một số đại thần yêu cầu thiên đô đến Nam Kinh Ứng Thiên phủ song bị Binh bộ thị lang Vu Khiêm bác bỏ. Cùng năm, đại thần tôn em của Anh Tông là Chu Kỳ Ngọc tức vị, tức Minh Cảnh Đế (hay Minh Đại Tông), niên hiệu Cảnh Thái. Vu Khiêm được thăng làm Binh bộ thương thư, chỉnh đốn biên phòng tích cực chuẩn bị chiến tranh, đồng thời quyết định kiên quyết bảo vệ Bắc Kinh, quân cần vương từ các địa phương liên tiếp tiến đến. Tháng mười cùng năm, quân Ngõa Lạt đến sát bên thành Bắc Kinh. Vu Khiêm lãnh đạo các lộ quân Minh kháng cự, Dã Tiên suất quân triệt thoái[25]. Triều Minh giành thắng lợi trong trận bảo vệ Bắc Kinh, Vu Khiêm phản bác các ý kiến khác, tăng cường củng cố quốc phòng, cự tuyệt cầu hòa, đến năm sau đánh lui quân Ngõa Lạt nhiều lần xâm phạm[24].
Dã Tiên nhận thấy giữ Minh Anh Tông đã thành vô nghĩa, vào năm 1450 cho phóng thích ông. Tuy nhiên, do vấn đề hoàng quyền nên Minh Đại Tông không muốn tiếp nhận Minh Anh Tông, ban đầu không muốn khiển sứ nghênh giá, rồi giam lỏng Minh Anh Tông trong Nam cung, đồng thời phế hoàng thái tử Chu Kiến Thâm (con của Minh Anh Tông), lập con mình là Chu Kiến Tế làm thái tử. Không lâu sau, Kiến Tế bệnh mất, Đại Tông không còn con trai song do dự không muốn tái lập Chu Kiến Thâm làm thái tử; huynh đệ Anh Tông và Đại Tông do đó đối lập nghiêm trọng[26].
Năm 1457, đám Thạch Hanh, Từ Hữu Trinh liên minh nhằm phục vị cho Minh Anh Tông, họ thừa cơ Minh Đại Tông mắc trọng bệnh mà phát động binh biến. Từ Hữu Trinh suất quân công nhập Tử Cấm Thành, đám Thạch Hanh chiếm lĩnh Đông Hoa Môn, lập Minh Anh Tông tại Phụng Thiên điện, cải nguyên Thiên Thuận. Họ giam giữ Minh Đại Tông, bắt giết Vu Khiêm và Đại học sĩ Vương Văn, sử xưng Đoạt Môn chi biến. Do hai lần tức vị, Minh Anh Tông trở thành hoàng đế duy nhất trong số các hoàng đế Minh-Thanh cai trị Trung Nguyên sử dụng hai niên hiệu. Sau khi phục vị, Minh Anh Tông thi hành tân chính, phế trừ chế độ tuẫn tàng từ thời Minh Thái Tổ. Sau đó, Minh Anh Tông cho lưu đày Từ Hữu Trinh do chính biến nội bộ, nhân biến Tào Thạch mà giết đám Thạch Hanh, Tào Cát Tường; đồng thời cho đám hiền thần Lý Hiền nắm quyền. Năm 1464, sau khi Minh Anh Tông từ trần, con ông là Chu Kiến Thâm tức vị, tức Minh Hiến Tông, niên hiệu Thành Hóa[24].
Để rửa oan cho Vu Khiêm, Minh Hiến Tông khôi phục đế hiệu cho Minh Đại Tông, xét lại án oan Đoạt Môn, khiến nhiều người hài lòng. Tuy nhiên, Minh Hiến Tông nói lắp, do vậy rất ít khi tiếp đại thần, suốt ngày say đắm với Vạn quý phi[27], sủng tín đám hoạn quan Uông Trực, Lương Phương, những năm cuối còn yêu thích thuật thần tiên. Đến đây đám gian nịnh nắm quyền, Tây xưởng hoành hành, triều cương hủ bại, dân chúng khổ sở. Hoạn quan Uông Trực nhận được sủng tín của Minh Hiến Tông, ngông cuồng hống hách, thông qua Tây xưởng giết oan bừa bãi phổ thông dân chúng và quan viên. Không lâu sau, do dân chúng phẫn uất khởi nghĩa khắp nơi, Tây xưởng bị bãi, song Uông Trực vẫn nắm giữ đại quyền, đến năm 1482 mới bị giáng chức[24]. Thời Thành Hóa có nhiều nhóm quyền lực: nữ sủng, ngoại thích, nịnh hạnh, gian hoạn, tăng đạo, kết thành bè đảng làm loạn triều chính[28]. Năm 1487, Minh Hiến Tông từ trần, con là Chu Hữu Đường kế vị, tức Minh Hiếu Tông, niên hiệu Hoằng Trị.
Minh Hiếu Tông từ nhỏ xuất thân bần hàn, còn từng gặp nguy hiểm bị Vạn quý phi hại. Trong thời gian tại vị, ông tiến hành canh tân triều chính, khiến thói xấu từ thời Minh Anh Tông trở đi được loại trừ, được tán tụng là "Trung hưng chi lệnh chủ"[29]. Minh Hiếu Tông trước tiên đem toàn bộ đám quan lại gian nịnh và dư thừa từ thời Hiến Tông để lại loại bỏ hoặc bắt giữ trị tội. Đồng thời, Hiếu Tông tuyển chọn sử dụng người hiền tài, ủy nhiệm việc quan trọng cho người có tài[30]. Minh Hiếu Tông chăm lo chính sự, mỗi ngày hai lần thị triều. Minh Hiếu Tông kiểm soát nghiêm ngặt hoạn quan, Cẩm y vệ và Đông xưởng cũng cẩn thận hành sự, dùng hình nhẹ bớt. Minh Hiếu Tông dốc sức thi hành tiết kiệm, không xây dựng công trình lớn, giảm miễn thuế phú. Bản thân Minh Hiếu Tông thi hành chế độ một vợ một chồng, ngoài Trương hoàng hậu thì không có phi tần nào. Thời kỳ Hoằng Trị là thời kỳ tốt đẹp nhất từ trung kỳ triều Minh trở đi, Minh sử viết Minh Hiếu Tông "cung kiêm hữu chế, cần chính ái dân", được gọi là Hoằng Trị trung hưng[31]. Tuy nhiên, vào trung hậu kỳ Minh Hiếu Tông không còn nghiêm túc lắng nghe can gián, đồng thời bắt đầu phung phí vô độ, khiến quốc gia bước vào tình cảnh khủng hoảng ngân khố, tệ chính vốn bị loại trừ vào sơ kỳ Hoằng Trị không những khôi phục toàn bộ mà còn trầm trọng hơn[32]. Năm 1505, Minh Hiếu Tông từ trần, con là Chu Hậu Chiếu tức vị, đó là Minh Vũ Tông, niên hiệu Chính Đức.
Nội loạn và Bắc Lỗ Nam Oa
Đến thời Minh Vũ Tông, thế lực hoạn quan lại trỗi dậy, được quy là do Vũ Tông ham chơi mà lười chính sự. Tuy nhiên, bản thân họa này chưa uy hiếp đến hoàng quyền, tuy có Bát hổ như Lưu Cẩn làm càn, song cuối cùng không như tình hình hoạn quan chuyên quyền cuối thời Đường, đám Lưu Cẩn cuối cùng vẫn bị Vũ Tông xử cực hình. Vũ Tông ham chơi, cuối cùng khiến dòng Hiếu Tông tuyệt tự[33], khiến thống hệ Đại Minh lần thứ hai có việc dòng thứ nhập thành dòng chính[31]. Minh Vũ Tông đắm chìm trong vui thú khiến cho trong thời Chính Đức nhiều lần phát sinh chiến sự, các sự kiện trọng đại như Đại Diên Hãn của Thát Đát đem quân xâm phạm, An Hóa vương Chu Trí Phiên tại Ninh Hạ mưu phản, khởi nghĩa Lưu Lục-Lưu Thất tại Sơn Đông, Ninh vương Chu Thần Hào tại Giang Tây mưu phản. Năm 1520, Minh Vũ Tông lấy cớ xuất chinh Giang Tây để xuống phương nam du ngoạn, trên đường về kinh thì bị rơi xuống nước khi đang đi thuyền nên nhiễm bệnh, sang năm 1521 thì từ trần[31].
Sau khi Minh Vũ Tông từ trần, cháu họ của Minh Hiếu Tông là Chu Hậu Thông kế thừa đại thống, đó là Minh Thế Tông, niên hiệu Gia Tĩnh. Trong khoảng thời điểm đăng cơ, nhiều quyền thần như Dương Đình Hòa, Mao Trừng buộc Minh Thế Tông tôn thân sinh phụ mẫu làm hoàng thúc phụ mẫu, khiến Minh Thế Tông phản cảm, đó là tranh chấp Đại lễ nghị. Cuối cùng, Minh Thế Tông tôn phụ mẫu làm hoàng đế và hoàng hậu, lập bài vị trong Thái Miếu trên Vũ Tông, ghi vào hoàng đế thực lục[31].
Sau năm 1534, Minh Thế Tông dù không thị triều song vẫn tường tận quốc sự, mọi sự lớn nhỏ vẫn do Minh Thế Tông quyết đoán. Minh Thế Tông sùng tín Đạo giáo, tin dùng phương sĩ, trong cung ngày đêm cầu cúng. Ban đầu, ông đưa Đạo sĩ Thiệu Nguyên Tiết nhập kinh, phong làm chân nhân và lễ bộ thượng thư. Sau khi Thiệu Nguyên Tiết từ trần, ông rất sủng Phương sĩ Đào Trọng Văn[31]. Tháng mười năm 1542, Càn Thanh cung phát sinh sự kiện hơn mười cung nữ như Dương Kim Anh, và Ninh tần Vương thị thừa cơ Minh Thế Tông đang ngủ say mà mưu đồ bóp chết ông, song không thành công, tức Nhâm Dần cung biến. Sau sự kiện này, cho đến trước khi từ trần, Minh Thế Tông dời Đại Nội đến sống tại Tây Nội. Minh Thế Tông sủng tín quyền thần Nghiêm Tung, nhân vật này do đó bài xích người bất đồng quan điểm, kết đảng nhằm mưu cầu tư lợi. Con của Nghiêm Tung là Nghiêm Thế Phiền hiệp trợ phụ thân. Triều thần mặc dù không ngừng có người hạch hỏi Nghiêm Tung kết đảng mưu cầu tư lợi, song đều thất bại. Cuối thời Thế Tông, Nghiêm Tung do tuổi đã cao nên Từ Giai bắt đầu thay thế vị trí của Nghiêm Tung. Năm 1562, Từ Giai kích động ngôn quan luận tội Nghiêm Tung, Nghiêm Tung từ quan hồi hương. Năm 1565, Nghiêm Thế Phiền bị xử trảm vì tội thông Oa, Nghiêm Tung bị giáng làm thứ dân, hai năm sau bệnh mất[34].
Thời Gia Tĩnh, Đại Minh liên tiếp có ngoại hoạn. Tại phương bắc, Thát Đát thừa cơ triều Minh suy nhược mà chiếm cứ Hà Sáo. Năm 1550, thủ lĩnh Thát Đát là Yêm Đáp xâm phạm Đại Đồng, Tổng binh Cừu Loan đem lượng lớn kim tiền mua chuộc Yêm Đáp để chuyển sang mục tiêu khác. Kết quả, Yêm Đáp chuyển sang đánh thẳng Bắc Kinh, sau khi cướp bóc quanh thành thì dời về phía tây, quân Minh chiến bại trong quá trình truy kích, đó là Canh Tuất chi biến. Do trong thời kỳ Minh Thế Tông, triều đình tuyên bố hải cấm, Oa khấu có thành phần là lãng nhân Nhật Bản và hải tặc Trung Quốc hợp tác với cư dân duyên hải buôn lậu, trước sau tập kích quấy nhiễu Sơn Đông, Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông. Các tướng lĩnh như Chu Hoàn, Trương Kinh nhận lệnh của triều đình song không thể bình định Oa khấu. Sau đó, Binh bộ thượng thư Hồ Tông Hiến tạm thời giữ chức Chiết Giang tuần phủ kiêm Chiết Trực tổng đốc toàn lực tiêu diệt Oa khấu, chiêu phủ thế lực mạnh nhất tại Chiết Giang là Uông Trực. Thích Kế Quang và Du Đại Du bình định Oa khấu tại các địa phương Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, tạo bối cảnh tốt cho Long Khánh khai quan về sau. Ngoài ra, người Bồ Đào Nha vào năm 1557 bắt đầu di dân đến Áo Môn, song đến khi triều Minh mất người Bồ Đào Nha và Áo Môn vẫn thuộc quyền quản trị của huyện Hương Sơn thuộc Quảng Đông. Năm 1566, Minh Thế Tông từ trần, Hoàng thái tử Chu Tái Hậu tức vị, tức Minh Mục Tông, niên hiệu Long Khánh[34].
Cải cách trung hưng
Sau khi tức vị, Minh Mục Tông trước sau tín nhiệm trọng dụng các danh thần như Từ Giai, Cao Củng và Trương Cư Chính. Năm 1567, cựu thần từ thời Minh Thế Tông là Từ Giai khích động triều quan buộc tội Cao Củng, buộc Cao Củng từ quan hồi hương. Cao Củng không cam tâm, năm sau khích động triều quan buộc tội Từ Giai, Từ Giai bị buộc chính thức thoái hưu. Chính vụ thực tế trong triều dần rơi vào tay Trương Cư Chính. Những năm cuối Long Khánh, Cao Củng hồi triều, nhậm chức đại học sĩ đứng đầu nội các. Tướng lĩnh triều Minh và thủ lĩnh Thát Đát là Yêm Đáp Hãn đạt thành hòa nghị, sử xưng Yêm Đáp phong cống. Về hàng hải, triều đình mở cửa mậu dịch dân gian, sử xưng Long Khánh khai quan. Do thi hành hai điều này cùng các cải cách khác, triều Minh bắt đầu tiến vào thời kỳ Trung hưng, sử xưng Long Khánh tân chính. Năm 1572, Minh Mục Tông đột nhiên từ trần, Hoàng thái tử Chu Dực Quân kế vị khi mới gần 9 tuổi, tức Minh Thần Tông, niên hiệu Vạn Lịch.[34].
Do Minh Thần Tông còn nhỏ tuổi, Lý thái hậu nhiếp chính. Cao Củng do đối kháng với hoạn quan Phùng Bảo vốn được Thái hậu tín nhiệm nên bị bãi quan, còn Trương Cư Chính được Phùng Bảo hết sức ủng hộ. Trương Cư Chính phụ chính mười năm, thi hành cải cách, trên phương diện nội chính đề xuất "tôn chủ quyền, khóa lại chức, hành thưởng phạt, nhất hiệu lệnh", thi hành "khảo thành pháp", cắt giảm triệt tiêu quan viên dư thừa trong cơ cấu chính phủ, chỉnh đốn việc truyền tin và tuyển chọn quan lại. Trên phương diện kinh tế, tiến hành đo đạc cụ thể ruộng đất toàn quốc, ức chế hào cường địa chủ, cải cách chế độ phú dịch, thi hành "nhất điều tiên pháp", giảm nhẹ gánh nặng của nông dân[35]. Năm 1393, vào thời kỳ Minh Thái Tổ, đất ruộng canh tác trên toàn quốc có 3.660.007 khoảnh, đến năm 1502 thời kỳ Minh Hiếu Tông chỉ tăng lên 4.228.058 khoảnh. Trải qua Trương Cư Chính trị lý, đến năm 1581 đạt đến 7.003.976 khoảnh. Trên phương diện quân sự, tăng cường chỉnh đốn vũ bị, bình định rối loạn tại tây nam, cho danh tướng Thích Kế Quang bảo vệ Kế Châu- trọng trấn cho Bắc Kinh, cho Lý Thành Lương an phủ các bộ lạc Nữ Chân, cho Vương Sùng Cổ, Phương Phùng Thì an phủ Thát Đát, các trọng thần khác như Lưu Hiển tại Tứ Xuyên, Ân Chính Mậu và Lang Vân Dực tại Lưỡng Quảng, Trương Giai Dận tại Chiết Giang, Trương Cư Chính rất tín nhiệm bọn họ[28]. Trương Cư Chính còn cho Phan Quý Tuần trị lý Hoàng Hà, biến thủy hoạn thành thủy lợi. Đồng thời, Trương Cư Chính trừng trị nghiêm khắc tham quan ô lại, cắt bỏ người vô dụng. Trương Cư Chính chỉnh đốn triều chính, cải cách thể chế, sử xưng Vạn Lịch trung hưng[34].
Năm 1577, cha của Trương Cư Chính từ trần, theo lệ thường ông phải giải chức hồi hương chịu tang trong ba năm, tức 'đinh ưu', song vì sự nghiệp cải cách chưa thành nên không muốn thực hiện. Địch thủ chính trị của ông nhân đó mà làm lớn chuyện, đó là "Đoạt Tình chi tranh". Cuối cùng, được Minh Thần Tông và hai vị thái hậu ủng hộ, Trương Cư Chính được miễn chịu tang tại gia, tức Đoạt tình khởi phục, do đó cải cách của ông không bị gián đoạn. Tuy nhiên, điều này trở thành một cớ để địch thủ chính trị của ông lợi dụng. Đồng thời, Trương Cư Chính lợi dụng chức quyền của bản thân để tạo thuận lợi cho con mình vượt qua khoa cử tiến vào Hàn lâm viện. Sau khi Trương Cư Chính từ trần, các địch thủ chính trị phản đối cải cách lập tức thanh toán. Một số người trong Trương phủ không kịp trốn bị giam bên trong, hơn chục người chết đói. Quan tước của Trương Cư Chính khi còn sống cũng bị tước[34].
Vạn Lịch đãi chính và đảng tranh
Thời gian đầu sau khi Trương Cư Chính từ trần, Minh Thần Tông vẫn có thể duy trì hứng thú với triều chính, song cùng với việc triều dã thanh toán thế lực của Trương Cư Chính, Minh Thần Tông bắt đầu ít thượng triều. Sau Quốc bản chi tranh, ông thậm chí còn có thái độ đãi chính tiêu cực. Trong thời gian Minh Thần Tông tại vị, về đối nội có các sự kiện nghiêm trọng như Đông Lâm đảng tranh, Quốc bản chi tranh và Vạn Lịch đãi chính; đối ngoại có các chiến dịch lớn như Vạn Lịch tam đại chinh và Hậu Kim quật khởi. Triều đại Vạn Lịch là thời kỳ chuyển đổi từ thịnh sang suy của triều Minh[36]. Quốc bản chi tranh là một sự kiện chính trị trọng đại kéo dài suốt từ trung kỳ đến vãn kỳ thời gian Minh Thần Tông trị vì, chủ yếu là xung quanh tranh chấp kế thừa hoàng vị giữa Hoàng trưởng tử Chu Thường Lạc và Phúc vương Chu Thường Tuân (con của Trịnh quý phi). Do Vương hoàng hậu không có con trai, Minh Thần Tông đặc biệt yêu mến hoàng tử thứ ba là Chu Thường Tuân, không muốn lập hoàng tử thứ nhất là Chu Thường Lạc làm thái tử, quan viên trong triều do đó phân thành hai phái khác biệt. Đến năm 1601, dưới áp lực của Hoàng thái hậu, Chu Thường Lạc mới được phong làm thái tử, còn Chu Thường Tuân được phong làm Phúc vương. Tuy nhiên, Phúc vương chậm rời kinh thành đi nhậm chức vị phiên vương. Đến khi phát sinh "Đĩnh kích án", dư luận bất lợi với Trịnh quý phi, Phúc vương mới rời kinh tới phiên, địa vị thái tử của Chu Thường Lạc nhờ vậy mà được vững chắc[37].
Do tranh chấp lập thái tử, Minh Thần Tông bất mãn cực độ đối với đại thần, năm 1587 bắt đầu lấy việc không thượng triều để trả đũa, chỉ xử lý một số sự kiện trọng yếu[38]. Minh Thần Tông không thị triều vào ngày đầu năm, sáng sớm không thị triều, cả ngày đắm chìm trong tửu sắc, mỗi năm lại tiến hành tuyển mỹ nữ, thường thích xây cất, hay cho xây công trình quy mô lớn. Đại lý tự tả bình sự dâng sớ, nói Minh Thần Tông đắm chìm trong tửu, sắc, tài, khí, kết quả bị giáng làm dân. Trung hậu kỳ thời Minh Thần Tông, tình hình tài chính nguy nan[39], do đó Minh Thần Tông phái thái giám làm khoáng giám và thuế giám trên toàn quốc để tăng thêm ngân khố. Tuy nhiên, khoáng giám và thuế giám đại đa số lấy danh nghĩa để vơ vét tài sản dân gian, nhiễu loạn quốc gia. Do Minh Thần Tông không quản lý triều chính, hiện tượng khuyết quan viên rất nghiêm trọng. Năm 1602, Nam-Bắc lưỡng kinh tổng cộng khuyết ba thượng thư, mười thị lang, các địa phương khuyết ba tuần phủ, 66 bố chính sứ hay án sát sứ, 25 tri phủ. Bên trên Minh Thần Tông chán trường, bên dưới triều thần tranh chấp, triều đình Minh hoàn toàn bước vào trong tình trạng không hoạt động. Do vậy, Minh sử viết rằng có nhà bình luận nói triều Minh thực tế mất từ thời Thần Tông[37], bộ phận sử gia nhận định triều Minh từ đây bắt đầu hướng đến diệt vong[40].
Do triều chính hỗn loạn, một bộ phận quan lại cấp trung và thấp chịu bài xích về chính trị, liên tiếp yêu cầu cải cách chính trị, đồng thời nhấn mạnh tiêu chuẩn đạo đức. Năm 1593, Đông Lâm đảng hình thành, danh xưng bắt nguồn từ Đông Lâm thư viện do Cố Hiến Thành sáng lập. Chủ trì kinh sát là Tôn Lung, Lý Thế Đạt và Triệu Nam Tinh, lợi dụng kinh sát để giáng chức bãi quan các quan lại không hợp với tiêu chuẩn của họ và không thuộc Đông Lâm đảng. Trải qua nhiều lần kinh sát, nhiều đảng phản đối như Tuyên đảng, Côn đảng, Tề đảng, Chiết đảng đứng lên và xung đột với Đông Lâm đảng. Từ đó, họa bè phái không dẹp nổi, triều chính đình đốn nội loạn[41]. Sang thời Minh Hy Tông, phái hoạn quan chuyên quyền, Đông Lâm đảng chịu đả kích nghiêm trọng, đến đầu thời Minh Tư Tông mới lại được sử dụng[37].
Trên phương diện quân sự đối ngoại, Vạn Lịch tam đại chinh là nổi danh nhất, đó là Ninh Hạ chi dịch nhằm bình định Bột Bái người Mông Cổ làm phản, Triều Tiên chi dịch nhằm kháng kích chính quyền Toyotomi Nhật Bản xâm nhập vương triều Triều Tiên, Bá Châu chi dịch nhằm binh định Thổ ty Dương Ứng Long làm phản, ba cuộc chiến trường kỳ này gần như đồng thời phát sinh, song tính chất không tương đồng. Triều Minh giành thắng lợi trong ba đại chiến này giúp củng cố biên cương, bảo hộ vương triều Triều Tiên, song làm tiêu hao lượng lớn nhân lực vật lực, là một trong các nguyên nhân trọng yếu khiến quốc khố trống rỗng, tài chính nguy khốn[42][43]. Năm 1617, thủ lĩnh Hậu Kim là Nỗ Nhĩ Cáp Xích lấy thất đại hận làm cớ tiến hành phản Minh, hai năm sau đại thắng quân Minh trong trận Tát Nhĩ Hử, triều Minh đến lúc này chọn sách lược phòng ngự làm chủ yếu để ứng phó với Hậu Kim[37].
Năm 1620, Minh Thần Tông từ trần[44]. Thái tử Chu Thường Lạc đăng cơ, tức Minh Quang Tông, niên hiệu Thái Xương, tại vị chỉ được một tháng. Ông ban thưởng cho quân Minh tại tiền tuyến Liêu Đông, trọng dụng người thuộc Đông Lâm đảng khiến triều chính chuyển nguy thành an, đồng thời ông bãi trừ khoáng giám thuế sứ[45]. Sinh mẫu của Phúc vương là Trịnh quý phi nhằm lung lạc Minh Quang Tông nên tiến hiến tám vị mỹ nữ. Minh Quang Tông ham mê quá độ nên không lâu thì đổ bệnh, Thái giám Thôi Văn Thăng dâng thuốc xổ khiến ông đi ngoài quá độ, lại do sử dụng 'hồng hoàn' của Lý Khả Chước mà đột tử, sử xưng "Hồng hoàn án". Sau khi Minh Quang Tông từ trần, sủng phi của ông là Lý Tuyền Thị muốn ở lại Càn Thanh cung, nhằm đề phòng bà can dự triều chính nên triều thần buộc bà đến Uyết Loan cung thuộc Nhân Thọ điện[46], tức Di cung án. Hoàng trưởng tử Chu Do Hiệu cuối cùng kế vị, tức Minh Hi Tông, niên hiệu Thiên Khải. "Đĩnh kích án", "Hồng hoàn án" và "Di cung án" gọi chung là "Minh mạt tam đại án", là kế tục của Quốc bản chi tranh, khiến đấu tranh chính trị trong triều đình Minh càng thêm kịch liệt, cũng đánh dấu bắt đầu thời kỳ Minh mạt suy vong[45].
Nguy cơ kinh tế và Nội ưu ngoại hoạn
Trong thời gian Minh Hi Tông tại vị, chính trị càng hủ bại đen tối. Minh Hi Tông do mất mẹ từ nhỏ nên có cảm tình đặc biệt với nhũ mẫu Khách thị. Khách thị và hoạn quan Ngụy Trung Hiền hợp tác với nhau làm càn. Thời kỳ ban đầu, Minh Hi Tông sử dụng lượng lớn người của Đông Lâm đảng, kết quả khiến Đông Lâm đảng và các đảng khác đấu tranh không ngừng, Minh Hi Tông do đó mất kiên nhẫn với triều chính, Ngụy Trung Hiền nhờ cơ hội này mà can dự chính trị, tập kết thế lực các đảng Tề-Sở-Chiết, hiệu là Yêm đảng. Năm 1624, Yêm đảng khống chế nội các, Ngụy Trung Hiền càng thêm ngông cuồng, móng vuốt của ông ta trải khắp trung ương và địa phương. Khi quyền thế tối thịnh, dưỡng tử của Ngụy Trung Hiền có thể thay thế hoàng đế tế Thái Miếu. Toàn quốc đều có miếu thờ sống Ngụy Trung Hiền, còn có học giả Quốc tử giám thuộc Yêm đảng đề xuất Ngụy Trung Hiền sánh ngang Khổng Tử, cha của Ngụy Trung Hiền sánh ngang Khải Thánh công[47]. Ngụy Trung Hiền ra sức đả kích Đông Lâm đảng, mượn tam án "Đĩnh kích, Hồng hoàn, Di cung" làm cớ, sai đồng đảng ngụy tạo "Đông Lâm đảng điểm tướng lục" thượng báo triều đình. Năm 1625, Minh Hi Tông hạ chiếu thiêu hủy thư viện toàn quốc, lượng lớn người thuộc Đông Lâm đảng bị vào tù, thậm chí bị xử tử. Do yêm đảng có trình độ thấp kém, chính trị không được chỉnh trị, trong nước thường xuyên xảy ra mất mùa đói kém, dân biến không ngừng, ngoại hoạn vẫn tiếp tục, triều Minh bước vào tình cảnh hiểm nghèo. Năm 1626, kho thuốc nổ của vương cung xưởng thuộc Công bộ tại góc tây nam Bắc Kinh phát nổ, tức Vương cung xưởng đại bạo tạc, khiến cho hơn hai vạn người tử thương. Năm 1627, Minh Hi Tông không cẩn thận rơi xuống nước mà mắc bệnh trọng, không lâu sau vì thuốc của Hoắc Duy Hoa mà từ trần, em là Tín vương Chu Do Kiểm kế vị, tức Minh Tư Tông, niên hiệu Sùng Trinh[45].
Sau khi tức vị, Minh Tư Tông kiên quyết loại trừ thế lực của Ngụy Trung Hiền để cải cách triều chính. Ông hạ lệnh đình chỉ xây dựng miếu thờ sống, bức Phụng Thánh phu nhân Khách thị ra ở ngoài cung, cuối cùng xử tử. Ông hạ lệnh Ngụy Trung Hiến đến Phụng Dương trông lăng mộ, Ngụy Trung Hiền trên đường đi cùng đồng đảng là Lý Triều Khâm tự tử, các phần tử khác trong Yêm đảng cũng bị biếm truất hoặc xử tử[48] [49]. Tuy nhiên, đảng tranh nội đấu kịch liệt, Minh Tư Tông không tín nhiệm bá quan, ông cố chấp, tăng cường tập quyền[45]. Đương thời, Hậu Kim tại phía đông bắc chiếm lĩnh khu vực Liêu Đông, đám Viên Sùng Hoán tại Liêu Tây kháng cự Khả hãn Hoàng Thái Cực xâm nhập. Năm 1629, Hoàng Thái Cực chuyển sang đi đường vòng Trường Thành để xâm nhập Bắc Kinh, Viên Sùng Hoán khẩn cấp hồi quân đối đầu với Hoàng Thái Cực tại Quảng Cừ môn Bắc Kinh. Trải qua Lục bộ cửu khanh hội thẩm, cuối cùng triều đình Minh xử tử Viên Sùng Hoán, sử xưng Kỉ Tị chi biến. Sau đó, Hoàng Thái Cực nhiều lần viễn chinh Mông Cổ, năm 1636 xưng đế tại Thịnh Kinh, cải quốc hiệu thành Đại Thanh. Hoàng Thái Cực liên tiếp phát động năm lần qua Trường Thành xâm nhập các khu vực Trực Lệ, Sơn Đông. Đương thời, Trực Lệ nhiều năm đói kém dịch bệnh, dân sinh gian khổ[50]. Cục thế Liêu Tây cũng ngày càng xấu đi, cuối cùng quân Thanh vào năm 1640 chiếm lĩnh Cẩm Châu và các nơi khác, tướng Hồng Thừa Trù đầu hàng, thế lực triều Minh thu nhỏ đến Sơn Hải quan[45].
Từ trung kỳ về sau, Đại Minh thường phát sinh nông dân khởi nghĩa, đến thời kỳ Minh Tư Tông do triều chính hỗn loạn và quan viên tham ô bất tài, nhu cầu phục vụ chiến tranh với Hậu Kim và quân Hậu Kim cướp đoạt, cùng với việc khí hậu trở nên lạnh hơn do tiểu băng kỳ, sản lượng nông nghiệp giảm gây nên đói kém trên quy mô toàn quốc, những điều này đều làm tăng gánh nặng cho nhân dân. Năm 1627, dân đói tại Trừng Thành thuộc Thiểm Tây tiến hành bạo động, khởi đầu cho giai đoạn Minh mạt dân biến, sau đó Vương Tự Dụng, Cao Nghênh Tường, Lý Tự Thành, Trương Hiến Trung cùng những nông dân khác khởi nghĩa, cuối cùng phát triển thành Lý Tự Thành hùng cứ Thiểm Tây, Hà Nam, còn Trương Hiến Trung chiếm cứ Tứ Xuyên. Năm 1644, Lý Tự Thành kiến quốc Đại Thuận, sau đó đánh hạ Bắc Kinh, Minh Tư Tông tự vẫn, triều Minh mất[45]. Ngô Tam Quế là tướng Minh trấn thủ Sơn Hải Quan, sau khi triều Minh mất ông ta quyết định dẫn quân Thanh nhập quan, đánh bại quân Đại Thuận. Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn và Thuận Trị Đế của triều Thanh nhập quan, Bắc Kinh trở thành thủ đô của triều Thanh. Lý Tự Thành triệt thoái về Thiểm Tây, cuối cùng bị quân Thanh tiêu diệt[45]
Nam Minh và Minh Trịnh
Sau khi triều Minh diệt vong, tại phương nam vẫn còn thế lực, sử xưng Nam Minh. Thế lực chủ yếu của Nam Minh có Tứ hệ vương: Phúc vương Chu Do Tung, Lỗ vương Chu Dĩ Hải, Đường vương Chu Duật Kiện và Chu Duật Việt (𨮁), Quế vương Chu Do Lang. Sau khi Nam Minh diệt vong, còn có chính quyền Minh Trịnh do Trịnh Thành Công kiến lập, và Quỳ Đông thập tam gia kháng Thanh. Năm 1644, sau khi Bắc Kinh bị Lý Tự Thành chiếm lĩnh, đại thần Nam Minh có ý ủng hộ hoàng tộc Bắc phạt. Trải qua nhiều lần thảo luận, Phúc vương Chu Do Tung xưng đế dưới sự ủng hộ của Phụng Dương tổng đốc Mã Sĩ Anh và Giang Bắc tứ trấn Cao Kiệt, Hoàng Đắc Công, Lưu Trạch Thanh và Lưu Lương Tá, tức Hoằng Quang Đế, sử xưng Nam Minh. Năm 1645, triều Thanh phái Đa Đạc đem đại quân nam hạ Nam Kinh, đương thời Hoằng Quang Đế bất tài, đại quyền do tàn dư của Yêm đảng khống chế, Giang Bắc tứ trấn cuối cùng liên tiếp tan vỡ. Quân Thanh công phá Dương Châu do Sử Khả Pháp tử thủ, Hoằng Quang Đế đào thoát đến Vu Hồ thì bị bắt giữ, bị đưa đến Bắc Kinh để xử tử. Thời gian đó, quân Thanh tiến hành đại đồ sát Dương Châu thập nhật, Giang Âm bát thập nhất nhật và Gia Định tam đồ để trấn áp người Hán phản kháng[51].
Sau khi Hoằng Quang Đế bị giết, Lỗ vương Chu Dĩ Hải tại Thiệu Hưng xưng là giám quốc, Đường vương Chu Duật Kiện được đám Trịnh Chi Long ủng hộ xưng đế tại Phúc Châu, tức Long Vũ Đế. Tuy nhiên, hai thế lực chủ yếu này của Nam Minh không thừa nhận địa vị của bên kia và đánh lẫn nhau. Long Vũ Đế liên tục đề nghị đưa quân Bắc phát, song không được Trịnh Chi Long ủng hộ nên cuối cùng không thành. Năm 1646, quân Thanh phân biệt chiếm lĩnh Chiết Giang và Phúc Kiến, Lỗ vương Chu Dĩ Hải đào vong trên biển, Long Vũ Đế đào thoát đến Giang Tây thì bị bắt rồi từ trần. Trịnh Chi Long đầu hàng quân Thanh, song vì con là Trịnh Thành Công khởi binh phản Thanh mà bị triều đình cầm tù. Sau khi Chu Duật Kiện từ trần, em là Chu Duật Việt tại Quảng Châu xưng đế, tức Thiệu Vũ Đế, cùng năm bị tướng Thanh là Lý Thành Đống công diệt. Đồng thời gian, Quế vương Chu Do Lang tại Triệu Khánh, Quảng Đông xưng đế, tức Vĩnh Lịch Đế[51].
Năm 1646, Vĩnh Lịch Đế có được các thế lực Cù Thức Tỉ, Lý Định Quốc, Tôn Khả Vong, cùng với ủng hộ của thế lực Trịnh Thành Công tại Phúc Kiến triển khai phản công. Các cựu tướng lĩnh của quân Minh tại các khu vực đã hàng Thanh lần lượt khởi nghĩa, Nam Minh thu phục được các tỉnh Hoa Nam trong một thời gian. Tuy nhiên, trong cùng năm tướng Thanh là Thượng Khả Hỉ suất quân xâm nhập, lần lượt chiếm lĩnh các khu vực Hồ Nam, Quảng Đông. Hai năm sau, Lý Định Quốc, Tôn Khả Vọng và Trịnh Thành Công phát động phản công lần thứ hau, trong đó Trịnh Thành Công từng bao vây Nam Kinh. Tuy nhiên, các lộ quân Minh cách xa nhau nên khó phối hợp, nội bộ lại phát sinh đám Tôn Khả Vọng làm phản, phản công lần thứ hai liên tiếp thất bại rồi kết thúc. Năm 1661, quân Thanh đánh vào Vân Nam, Vĩnh Lịch Đế lưu vong sang thủ đô Sagaing của vương triều Taungoo Miến Điện, được Quốc vương Mãnh Đạt (Pindale Min) tiếp đãi. Sau đó, Ngô Tam Quế đánh vào Miến Điện, em của Mãnh Đạt là Mãnh Bạch (Pye Min) thừa cơ phát động chính biến. Đến ngày 12 tháng 8, Mãnh Bạch phát động "Chú Thủy chi nan", giết hết thị tòng cận vệ của Vĩnh Lịch Đế[52], Vĩnh Lịch Đế cuối cùng bị Ngô Tam Quế siết cổ chết, Nam Minh mất[51].
Đến lúc này thế lực phản Thanh chỉ còn Quỳ Đông thập tam gia quân, và Trịnh Thành Công tại Kim Môn-Hạ Môn (sử xưng Minh Trịnh). Tàn dư của lực lượng Lý Tự Thành sau khi kháng Thanh tại Hồ Nam thất bại, dời đến vùng núi Tứ Xuyên-Hồ Bắc tiến hành hoạt động, tại khu vực phía đông của Quỳ Châu phủ tiếp tục kháng Thanh, gọi là Quỳ Đông thập tam gia quân. Năm 1662, quân Thanh bắt đầu tiến công, đến năm 1664 thủ lĩnh Lý Lai Hanh bị giết nên kết thúc. Trịnh Thành Công sau thất bại tại Nam Kinh thì triệt thoái đến Kim Môn-Hạ Môn, năm 1661 suất quân viễn chinh đảo Đài Loan đang do người Hà Lan chiếm cứ, kết quả thành công, định đô tại Đông Ninh (nay là Đài Nam). Con là Trịnh Kinh từng tham dự loạn Tam Phiên song thất bại. Năm 1683, triều Thanh mệnh Thi Lang tiến công Đài Loan, chúa Trịnh Khắc Sảng đầu hàng, Minh Trịnh mất[51].
Cách mạng thương mại
Thành kiến của Minh Thái Tổ đối với tầng lớp thương nhân không hạn chế được số lượng các thương gia. Trái lại, thương mại đạt tới tỷ lệ lớn hơn so với các thế kỷ trước đó và tiếp tục phát triển, bởi vì các nền công nghiệp đang trên đà lớn mạnh cần tới sự hợp tác của các thương gia. Tại một số tỉnh, đất đai bạc màu và dân cư quá đông đúc là những lực đẩy lớn buộc dân chúng phải tham gia vào thị trường trao đổi hàng hoá. Một cuốn sách, "Từ điển tân thư" (?), đã miêu tả chi tiết về những hoạt động của các thương gia thời kỳ đó. Cuối cùng, chính sách của Thái Tổ nhằm ngăn cấm thương mại chỉ còn tác dụng gây trở ngại tới việc đánh thuế các thương gia của triều đình. Thái Tổ thực tế đã tiến hành hạn chế thương mại và các thương gia đối với các mặt hàng nhu yếu phẩm như muối. Ví dụ, triều đình giao kèo với các nhà buôn về việc vận chuyển lương thực tới biên giới. Đổi lại, triều đình cấp các phiếu muối cho các nhà buôn, và họ có thể bán lại số muối đó cho nhân dân. Những giao kèo như vậy mang lại các khoản lợi lớn cho giới thương gia.
Thương mại tư nhân tiếp tục hoạt động bí mật bởi vì cảnh sát và triều đình không thể kiểm soát toàn bộ bờ biển, và bởi vì các quan chức và các gia đình học giả địa phương tại các tỉnh ven biển trên thực tế hợp tác với các nhà buôn để chế tạo tàu thuyền phục vụ thương mại. Buôn lậu diễn ra chủ yếu với Nhật Bản và các nước Đông Nam Á, và nó càng tăng lên khi các mỏ bạc được tìm thấy ở Nhật Bản vào những năm đầu thế kỷ 16. Bởi vì bạc là hình thức tiền tệ chính ở Trung Quốc, đa số dân đều sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm để đi thuyền đến Nhật Bản hay Đông Nam Á nhằm bán hàng hóa để đổi lấy bạc hay mời các nhà buôn Nhật Bản tới bờ biển Trung Quốc để buôn bán tại các cảng bí mật. Những nỗ lực của nhà Minh nhằm chấm dứt tình trạng "cướp biển" đó là nguyên nhân dẫn tới những cuộc chiến tranh Nụy khấu trong những năm 1550 và 1560. Sau khi thương mại tư nhân với Đông Nam Á được tái cho phép năm 1567, thị trường đen không còn tồn tại nữa. Thương mại với Nhật Bản vẫn bị ngăn cấm, nhưng các nhà buôn có thể đơn giản vượt qua nó bằng cách buôn bán thông qua Đông Nam Á. Tương tự, bạc từ những nhà buôn Tây Ban Nha, Pêru cũng tham gia vào thị trường với số lượng rất lớn, và không hề có một sự hạn chế nào với việc đó ở Manila. Số lượng bạc to lớn chảy vào Trung Quốc giúp tiền tệ hóa nền kinh tế (thay thế sự trao đổi bằng tiền mặt), và càng thúc đẩy thêm sự phát triển thương mại.
Luật pháp
Luật pháp ra đời dưới thời Minh Thái Tổ được xem là một trong những bước tiến lớn nhất thời đại. Minh sử cho rằng ngay từ đầu năm 1364 triều đình đã bắt đầu soạn thảo các bộ văn bản luật được gọi chung là Đại Minh luật Thái Tổ rất quan tâm đến dự án này vào ông đã yêu cầu các vị quan làm luật phải đưa ra được một bộ luật dễ hiểu và bao hàm toàn diện cuộc sống không để lại những kẽ hở khiến các vị quan lại cấp dưới có thể lợi dụng nhằm diễn giải sai ý nghĩa ngôn từ.
Luật pháp triều Minh có bước tiến lớn so với nhà Đường trong việc đối xử với nô lệ. Theo luật nhà Đường, nô lệ bị coi là ngang hàng với súc vật, nếu họ bị một công dân tự do giết luật pháp không hể trừng phạt kẻ giết người luật mới bảo vệ những người nô lệ và cả các công dân tự do một ý tưởng muốn quay trở lại với thời cai trị của vua Quang Vũ nhà Đông Hán đầu thế kỷ 1. Luật pháp triều Minh cũng nhấn mạnh trên các mối quan hệ gia đình Đại Minh luật dựa trên những ý tưởng Khổng giáo và những ý tưởng này luôn là thứ trung tâm nhất của mọi triều đình phong kiến Trung Hoa sau đó.
Loại bỏ chức vụ Tể tướng
Năm 1380, Minh Thái Tổ xử tử thừa tướng Hồ Duy Dung (胡惟庸, Hu Weiyong) sau khi phát hiện một âm mưu truất phế ông; sau đó Thái Tổ bỏ luôn chức Tể tướng.[53][54]
Nhiều người cho rằng Minh Thái Tổ muốn tập trung quyền lực tuyệt đối trong tay mình. Loại bỏ chức vụ Tể tướng và như vậy cũng loại bỏ luôn sự chống đối có thể có đối với các ông vua bất tài. Tuy nhiên vị trí tể tướng lại được thay thế bởi một chức vụ khác được gọi là Đại học sĩ. Ray Huong - giáo sư State University - cho rằng bề ngoài các đại học sĩ dường như không quyền hành gì nhưng thực tế nắm nhiều ảnh hưởng phía sau ngai vàng bởi uy tín và sự tin tưởng của dân chúng dành cho họ. Các đại học sĩ có thể đóng vai trò trung gian giữa hoàng đế và quan lại và như vậy có thể làm cân bằng và ổn định các lực lượng trong triều đình.
Xây dựng Vạn lý trường thành
Sau khi quân đội nhà Minh bị đánh bại tại trận Thổ Mộc và phải chịu đựng những cuộc cướp phá do người Mông Cổ dưới sự lãnh đạo của vị hãn mới, Altan Khan (Yêm Đáp Hãn), tiến hành nhà Minh đã phải chấp nhận một chiến lược mới để đối phó với những kỵ sĩ phương bắc đó: một bức tường thành vĩ đại và không thể xâm nhập.
Hầu như khoảng 100 năm trước (1368) nhà Minh đã bắt đầu xây dựng một pháo đài mới với kỹ thuật tiên tiến mà ngày nay chúng ta gọi là Vạn lý Trường Thành. Được xây dựng với một chi phí khổng lồ, bức tường chạy dọc theo các biên giới của đế quốc Minh. Phải chấp nhận lùi bước tránh vùng đất thuộc quyền kiểm soát của người Ordos Mông Cổ, phía nam Hoàng Hà, bức thành chạy dọc theo biên giới phía bắc hiện nay của các tỉnh Sơn Tây và Thiểm Tây hiện nay. Chi phí cho việc xây dựng vượt quá rất nhiều so với các chiến dịch quân sự chống lại người Mông Cổ trong vòng 80 năm trước đó của nhà Minh và tiếp tục tăng lên tới tận khi hoàn thành (năm 1644).
Mạng lưới chỉ điểm
Các chú thích trong bài hoặc đoạn này phải hoàn chỉnh hơn để có thể được kiểm chứng. |
Thời nhà Minh các mạng lưới cảnh sát ngầm phát triển rộng rãi trong quân đội. Do quá khứ xuất thân hèn mọn của mình, Minh Thái Tổ rất căm ghét các quan lại tham nhũng và hiểu rất rõ các nguy cơ có thể đến các cuộc nổi loạn. Ông đã tạo ra Cẩm Y Vệ để bảo vệ cẩn mật riêng cho mình và hoạt động như một đội cảnh sát chìm trong khắp đế chế. Dù đạt được rất ít thành công trong thời gian tồn tại đội ngũ này nổi tiếng vì sự tàn bạo trong việc xử lý các vụ phạm tội hơn là một lực lượng cảnh sát thực sự, trên thực tế nhiều người bị họ bắt là người vô tội. Cẩm Y Vệ đã reo rắc nỗi sợ hãi trong khắp đế chế. Tuy nhiên quyền lực của họ đã bị giảm sút khi ảnh hưởng của các hoạn quan trong triều ngày càng tăng. Các hoạn quan đã tạo ra ba nhóm mật vụ để phục vụ cho lợi ích của riêng mình. Đó là Đông Xưởng, Tây Xưởng và Nội Xưởng, và cả ba đều không kém Cẩm Y Vệ về mặt tàn bạo và có lẽ còn ở mức độ cao hơn bởi lẽ họ chính thức là một công cụ của hoạn quan trong việc loại bỏ các đối thủ chính trị chứ không còn mang một chức năng nào khác.
Nạn hoạn quan
Nạn hoạn quan hầu như triều đình nào cũng có. Nhà Tần, nhà Hán và nhà Đường sụp đổ một phần lớn cũng vì nạn hoạn quan. Chu Nguyên Chương biết rõ, nên ra lệnh cấm không cho hoạn quan xen vào việc nước, hạn chế hoạn quan, phẩm trật chức tước, và cấm hoạn quan học chữ. Ông bảo các đại thần: "Kẻ nào dùng hoạn quan, coi như tai mắt thì kẻ đó hóa đui và điếc. Chì có một cách xư sử với chúng là làm cho chúng sợ phép nước, đừng thường khen chúng." Vậy nhưng hậu duệ lại làm trái hẳn với ý của Chu Nguyên Chương.
Chỉ đến đời con ông, Minh Thành Tổ, là hoạn quan lại được trọng dụng. Để thưởng công cho hoạn quan vì làm nội ứng cho mình cướp ngôi, Thành Tổ bỏ hết những cấm lệnh của cha, cho hoạn quan được bẩm phục của công, lãnh những chức lớn. Thái giám Trịnh Hoà được cử đi sứ; ông lại lập một cơ quan ở trong cung gọi là Đông Xưởng để dò la tìm bắt kẻ gian thần phản nghịch, cơ quan đó được giao cho một hoạn quan điều kiển, từ đó uy thế hoạn quan rất lớn.
Đời Minh Tuyên Tông mở một thư đường trong nội phủ để dạy học các hoạn quan, được kết giao với các đại thần ở triều nên hoạn quan càng có thế lực. Nhiều thanh niên tự hoạn, nhiều cha mẹ hoạn con từ khi chúng mới vài tuổi để gây dựng tương lai cho chúng, mong cả họ được nhờ, vì vậy họa hoạn quan đời Minh còn hơn cả các triều đại trước.
Sụp đổ
Sự sụp đổ của nhà Minh xảy ra trong một thời gian dài và nó khởi nguồn ngay từ năm 1600 với sự xuất hiện của Mãn Châu dưới sự lãnh đạo của Nỗ Nhĩ Cáp Xích (Nurhaci). Với ưu thế pháo binh của mình, nhà Minh liên tục đẩy lùi người Mãn Châu, đặc biệt trong các năm 1623 và 1628. Tuy nhiên, họ không thể chiếm lại được quyền kiểm soát của mình đối với người Mãn Châu và cả vùng đất đó. Từ năm 1629 về sau này, nhà Minh kiệt sức với những vụ tranh giành quyền lực bên trong và những vụ tấn công ở miền bắc từ phía người Mãn Châu; họ đã chuyển sang chiến thuật đột kích nhằm tránh đối mặt với quân đội Minh trong những trận chiến lớn.
Không thể tấn công trực tiếp vào đầu não nhà Minh, người Mãn Châu chờ đợi cơ hội của mình, phát triển pháo binh của riêng họ và thành lập các liên minh. Họ có được các quan chức trong triều nhà Minh làm quân sư cho mình. Năm 1633 họ hoàn thành việc chinh phục Nội Mông, dẫn tới việc tuyển được một số lượng lớn lính Mông Cổ dưới cờ Mãn Châu và chiếm được một con đường nữa dẫn tới trung tâm đế quốc Minh.
Tới năm 1636 vua Mãn Châu là Hoàng Thái Cực đã đủ tự tin để tuyên bố thành lập đế quốc nhà Thanh tại Thẩm Dương, vùng đất đã bị người Mãn Châu chiếm từ năm 1621, và lấy niên hiệu là Sùng Đức. Cuối năm 1637 đồng minh truyền thống của nhà Minh là Triều Tiên bị đánh bại và chinh phục bởi đội quân mạnh mẽ với 10 vạn người của Mãn Châu, và Triều Tiên chấm dứt công nhận nhà Minh.
Ngày 26 tháng 5, 1644, Bắc Kinh rơi vào tay quân khởi nghĩa nông dân do Lý Tự Thành lãnh đạo. Nắm lấy cơ hội này, người Mãn Châu vượt qua Vạn Lý Trường Thành sau khi viên tướng giữ biên giới của nhà Minh là Ngô Tam Quế mở cổng thành tại Sơn Hải quan, và nhanh chóng đánh bại, lật đổ triều đình Đại Thuận với thời gian tồn tại ngắn ngủi 40 ngày của Lý Tự Thành. Dù đã mất Bắc Kinh (nơi Minh Thái Tổ từng cho là không nên lựa chọn làm kinh đô [cần dẫn nguồn]) và nhà vua qua đời, quyền lực của nhà Minh vẫn chưa bị tiêu diệt hẳn. Nam Kinh, Phúc Kiến, Quảng Đông, Sơn Tây và Vân Nam trên thực tế đều là những "pháo đài" mạnh cho sự chống cự của nhà Minh. Tuy nhiên, việc mất chính quyền Trung ương khiến nhiều thế lực ngấp nghé ngôi báu và vì vậy họ không thể liên kết với nhau. Tới năm 1662, từng "pháo đài" một bị người Mãn Thanh đánh bại, và những hy vọng cuối cùng cho sự hồi phục của nhà Minh mất đi cùng với vua Vĩnh Lịch Chu Do Lang.
Cương vực
Sự khởi đầu của nhà Minh được đánh dấu bởi những cuộc chinh phạt khi họ tìm cách củng cố và mở rộng quyền lực.
Trong những năm cầm quyền đầu tiên của mình, vị vua đầu tiên nhà Minh, Thái Tổ, đã đưa ra những chỉ dẫn như những huấn thị cho các thế hệ sau này. Chúng gồm những lời khuyên cho rằng các nước ở phương bắc là rất nguy hiểm và là một mối đe dọa đối với chính thể nhà Minh. Trái lại, ông cho rằng các nước phương nam không phải là một mối đe doạ, vì thế cũng không phải là một mục tiêu cần tấn công. Dù tuân theo hay không tuân theo những chỉ dẫn này, chính các nước phương nam là mục tiêu xâm lấn và mở rộng của nhà Minh trong những thế kỷ tiếp sau. Sự dính líu tới phương nam mà không mang lại lợi ích cụ thể nào rõ ràng đã làm đế quốc Minh suy yếu.
Thể chế chính trị
Ngoại giao
Những năm đầu, triều đình Minh thực thi thể chế triều cống, mậu dịch triều cống cho nhiều hơn nhận, nhiều người Nhật Bản giả làm sứ giả triều cống nhằm nhận được lợi ích. Trên thực tế, Nhật Bản đang trong trạng thái cát cứ, không có chính quyền trung ương thống nhất, rất nhiều người Nhật Bản giả làm sứ giả triều cống sang Trung Quốc không thuộc quyền quản lý của chính phủ Nhật Bản, sau khi triều cống họ lưu lại cướp đoạt tại khu vực duyên hải của Trung Quốc, đây là Uy khấu thời Minh sơ. Nhằm phòng chống Uy khấu, Minh Thái Tổ ban bố chính sách hải cấm. Từ đó trở đi, nếu muốn sang Trung Quốc giao thương thì cần phải theo phương thức triều cống kiêm mậu dịch, ngoài ra còn có tác dụng thu phục kết giao các quốc gia xung quanh. Chính sách quản chế mâu dịch nghiêm khắc của triều Minh khiến cho mậu dịch thông thường được tiến hành bí mật, chuyển thành mậu dịch buôn lậu. Khu vực tập trung cảng mậu dịch khu vực chuyển từ Quảng Đông, Phúc Kiến sang các thuộc địa của phương Tây tại Đông Nam Á. Do chính phủ Trung Quốc mất đi vai trò duy trì trật tự trên biển, các tập đoàn hải tặc hoành hành. Do mậu dịch hàng hải vẫn phải tiến hành theo phương thức ngầm, lượng lớn đồ bạc từ châu Mỹ được đưa vào Trung Quốc, bạc bắt đầu đóng vai trò là tiền tệ phổ biến[55].
Thời Minh Thành Tổ, trong những năm Vĩnh Lạc, triều đình phái khiển nhà hàng hải Trịnh Hòa đem thuyền đội viễn dương bảy lần "hạ Tây Dương", đi xa nhất đến bờ biển phía đông châu Phi, và còn phái khiển Trần Tử Lỗ di sứ sang mười tám quốc gia tại Tây Vực như Samarkand, Thổ Lỗ Phồn, Hỏa Châu, tăng cường giao lưu về kinh tế chính trị giữa triều Minh và thế giới, thể hiện triều đại Vĩnh Lạc ở vào đỉnh cao thịnh vượng và có tính khai phóng. Sang thời Minh Nhân Tông, hoàng đế nghe theo ý kiến của một số đại thần trong triều, nhận định "hạ Tây Dương" gây lãng phí quá độ, hiệu quả nhận được không lớn, tuyên bố đình chỉ hoạt động này. Năm Tuyên Đức thứ 5 (1431) thời Minh Tuyên Tông, hoàng đế phái Trịnh Hòa hạ Tây Dương lần thứ bảy, cũng là lần cuối. Thời Minh Hiến Tông, từng có thái giám đề nghị với hoàng đế tiếp tục tiến hành hạ Tây Dương, hoàng đế hạ chiếu đến Binh bộ yêu cầu tư liệu của Trịnh Hòa như hải đồ. Tuy nhiên, các quan viên như Lưu Đại Hạ nhận định hạ Tây Dương gây hại lớn cho quốc gia, vô ích, do đó đem các tư liệu từ hành trình của Trịnh Hòa giấu đi (có thuyết nói là tiêu hủy), kế hoạch do đó bị bãi bỏ. Về sau, Uy khấu hoành hành, triều Minh gia tăng mức độ hải cấm, đến sau năm Long Khánh thứ 1 (1567) thời Mục Tông, Uy khấu dần được bình định, triều đình nhận thấy tính trọng yếu của mậu dịch đối ngoại đối với cư dân duyên hải, do đó từng bước giải trừ hải cấm, khiến mậu dịch bí mật trong dân gian được hợp pháp hóa, mậu dịch quốc tế sôi động khiến Trung Quốc tiến vào hệ thống mậu dịch thế giới đang dần thành hình[56].
Uy khấu tạo thành mối uy hiếp nghiêm trọng đối với hải cương của triều Minh, tuy vậy thành phần chủ yếu của Uy khấu không phải là người Nhật Bản mà là lưu dân bị phá sản tại khu vực duyên hải Trung Quốc. Mặc dù có các chiến dịch "kháng Uy" của Chu Hoàn và Trương Kinh, song cuối cùng đều không thể đạt được thành công hoàn toàn. Nhằm đề phòng Uy khấu xâm nhiễu, trong thời kỳ Thế Tông thực thi hải cấm, đoạn tuyệt mậu dịch với Nhật Bản. Đến khi các danh tướng như Thích Kế Quang tận lực "kháng Uy", Uy khấu mới bị trừ sạch, tình hình hải cương mới trở nên bình ổn hơn. Sau khi Toyotomi Hideyoshi thống nhất Nhật Bản, có ý muốn chiếm lĩnh Triều Tiên. Năm Vạn Lịch thứ 20 (1592), Nhật Bản tấn công Triều Tiên, Quốc vương của Triều Tiên đào thoát sang Nghĩa Châu đồng thời phái sứ giả cầu cứu triều đình Minh. Triều Minh từng giành được thắng lợi trong chiến tranh, hai bên từng tiến hành hòa đàm, song sau năm Vạn Lịch thứ 25 (1597) Nhật Bản lại tiến công Triều Tiên. Năm Vạn Lịch thứ 26 (1598), Toyotomi Hideyoshi bệnh mất, lòng quân Nhật Bản dao động, kết quả là triệt quân. Chiến tranh với Nhật Bản làm suy yếu nghiêm trọng quốc lực của Minh và Triều Tiên, còn Nhật Bản rơi vào tình trạng phân liệt, trong khi đó các bộ lạc Nữ Chân trở thành bên hưởng lợi[57].
Mông Cổ và Nữ Chân là hai bộ tộc tạo thành mỗi uy hiếp lớn nhất tại biên cảnh của triều Minh, người đương thời gọi là Tây Lỗ và Đông Lỗ. Trong những năm đầu triều Minh, khi vũ lực còn cường thịnh, từng có thời gian đuổi người Mông Cổ lên Mạc Bắc, Mông Cổ cũng vì nội loạn mà phân liệt thành các nhóm như Thát Đát, Ngõa Lạt nên không đủ lực xâm nhập phương nam. Sau này, cùng với việc triều Minh suy lạc, nhóm có thực lực nhất trong các bộ lạc Mông Cổ sau khi xưng bá trong tộc còn nhiều lần tiến công triều Minh, như Thổ Mộc bảo chi biến do người Ngõa Lạt, Canh Tuất chi biến do Thổ Mặc Đặc bộ. Cương giới của triều Minh do đó thu nhỏ, còn quốc lực cũng bị tiêu hao rất nhiều. Yêm Đáp Hãn về sau bắt đầu kết giao với triều Minh, thụ phong tước Thuận Nghĩa vương, tam nương tử kế thừa chính sách hòa bình của ông. Khu vực biên giới Minh-Mông an ninh hòa bình, đến sau khi Hậu Kim khống chế Mông Cổ thì tình hình này mới kết thúc. Thời kỳ đầu, triều đình Minh từng đặt Nô Nhi Can đô ty để quản lý các bộ lạc tại Đông Bắc, người Nữ Chân trong giai đoạn này là đồng minh với Minh để bài trừ thế lực tàn dư đối địch tại Đông Bắc, quan hệ song phương trong giai đoạn mật thiết. Tuy nhiên, đến trung hậu kỳ, triều đình Minh thi hành một số chính sách không thích hợp, tiến hành kỳ thị, hạn chế, kích động phân hóa người Nữ Chân. Khi các bộ lạc Mông Cổ và Nữ Chân tại Đông Bắc ngày càng lớn mạnh, Nô Nhi Can đô ty bị phế, năng lực khống chế tại Đông Bắc của triều Minh càng suy giảm. Sang thế kỷ 17, thủ lĩnh Kiến Châu Nữ Chân là Nỗ Nhĩ Cáp Xích thống nhất các bộ lạc Nữ Chân, khiến người Mông Cổ hàng phục, vào năm 1616 kiến quốc Đại Kim, đối địch với triều Minh. Hậu Kim chiếm lĩnh đại bộ phận lãnh thổ Liêu Đông, có dã tâm làm chủ Trung Nguyên, uy hiếp nghiêm trọng đến an toàn của triều Minh. Năm 1636, Đại Kim cải quốc hiệu sang Đại Thanh, kiến lập Thanh triều, cuối cùng vào năm 1644 sau khi triều Minh diệt vong tiếp nối thống trị Trung Quốc trong 267 năm[58].
Sau khi châu Âu tiến vào thời đại khám phá hàng hải, người Bồ Đào Nha nhằm tiếp tục khai thác tuyến hàng hải đến Ấn Độ, Trung Quốc, sau khi chiếm lĩnh Malacca năm 1511, lại có ý đồ lập cứ điểm mậu dịch tại Trung Quốc. Năm Chính Đức thứ 7 (1513) thời Vũ Tông, Quốc vương Bồ Dào Nha Emmanuel I vì muốn thông thương với triều đình Minh nên phái đoàn sứ giả đến Trung Quốc. Đoàn sứ giả muốn đổ bộ tại Quảng Châu, song bị cự tuyệt nhập cảnh. Họ chuyển sang dùng vũ lực chiếm cứ Đồn Môn, bùng phát Hải chiến Đồn Môn, Bộ chiến Tây Thảo Loan với triều Minh, kết quả chiến bại. Cuối cùng, Gia Tĩnh Đế đồng ý cho đoàn nhập cảnh, đồng thời nhượng Áo Môn cho người Bồ Đào Nha, chấp thuận cho họ đến Quảng Châu mỗi năm, đây là lần đầu tiên cường quốc phương tây chính thức đổ bộ Trung Quốc. Sau đó, các quốc gia châu Âu khác như Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh Quốc cũng phái các sứ đoàn đến, khiến cho không ít sự vật phương Tây truyền vào Trung Quốc. Năm Vạn Lịch thứ 10 (1582) thời Thần Tông, Matteo Ricci phụng mệnh đến Trung Quốc công tác, ông rất nhanh chóng lĩnh hội Trung văn, Nho giáo, có được cảm tình tốt của sĩ đại phu triều Minh. Sau đó, ông được cử đến Bắc Kinh, được Thần Tông tín nhiệm. Ông đóng góp cho Trung Quốc các cống phẩm như Khôn dư vạn quốc toàn đồ, đồng hồ, đồng hồ Mặt Trời, đại pháo Tây Dương, kính viễn vọng, hỏa thương, Tây dược, tượng Maria, Thập tự giá. Matteo Ricci không chỉ truyền bá Thiên Chúa giáo mà còn truyền cảm hứng cho đám Từ Quang Khải, Lý Chi Tảo học tập Tây học. Ngoài ra, ông còn đưa các loại hình văn hóa của Trung Quốc truyền đến châu Âu, như tư tưởng Nho gia, học thuyết Phật giáo, cờ vây. Ngoài ra, vào thời kỳ Minh mạt có không ít quân đội triều Minh từng trang bị hỏa khí đặc biệt là đại pháo Tây Dương[57].
Quân sự
Từ thời "Thái Tổ khai quốc", quân đội Đại Minh đã vượt xa đối phương bằng ưu thế pháo binh và hỏa khí, bao gồm những cỗ pháo nhỏ cỡ súng cối cho đến lớn như đại pháo Hồng Di của người Hà Lan. Họ cũng tự sản xuất những khẩu súng trường bộ binh đầu tiên, khiến đối phương phải hoảng sợ. Do ưu thế vượt bậc về vũ khí, người Nữ Chân ngày đầu xâm lược nhà Minh đã vấp phải đủ thứ kháng cự. Cùng với hàng loạt khí tài phong phú, quân đội hành xử theo kỷ cương quân luật chặt chẽ cũng là nguyên tố đóng vai trò lớn. Hàng loạt tướng tài như Thích Kế Quang, Viên Sùng Hoán cũng góp phần quan trọng. Biên cương nhà Minh luôn luôn vững vàng, nhưng chỉ trước khi những vị tướng tài này lần lượt ra đi.
Tuy quân Minh chiếm ưu thế về khí tài, nhưng tài chính từ từ thành vấn đề lớn. Quân đội lớn luôn luôn đòi hỏi chi tiêu lớn, do đó, vì sự tham nhũng của những quan lại cao cấp cũng như sự hoang phí của những bậc hôn quân, từ thời Minh Thần Tông quân đội đã bắt đầu suy thoái trầm trọng. Đến thời Sùng Trinh, nếu như không có Viên Sùng Hoán thì Sùng Trinh cũng chưa chắc đã trụ lại lâu hơn. Quân Minh không thiếu khí tài, nhưng dần dần thiếu nguồn nhân lực, quốc khố cạn kiệt cũng như thiếu tướng sĩ để "khâu vá" những chỗ trống nên do đó mà dẫn đến Đại Minh diệt vong.
Nhân khẩu
Sau khi Đại Minh thành lập và thống nhất Trung Hoa, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương thi hành chính sách "hưu dưỡng sinh tức" (phục hồi và phát triển), nông nghiệp thời Mông-Nguyên vốn chịu sự phá hoại từ chiến tranh nay khôi phục ở mức độ lớn, những năm Hồng Vũ tiến hành khẩn hoang vùng đất phía bắc Hoài Hà và Tứ Xuyên trên quy mô lớn, nhân khẩu do vậy tăng trưởng ổn định. Đến năm Hồng Vũ thứ 26 (1393), toàn quốc có 63 triệu người, trong đó 61,75 triệu người thuộc dân hộ, 3,25 triệu người thuộc quân hộ. Bắc ngũ tỉnh (Bắc Bình, Sơn Tây, Sơn Đông, Hà Nam, Thiểm Tây) có 17,55 triệu nhân khẩu, chiếm 27% toàn quốc; trong đó Sơn Đông là đông dân nhất với 5.462.850 người, kế đến là Sơn Tây (3.790.760 người), Hà Nam (2.825.300 người), Thiểm Tây (2.646.450 người), Bắc Bình (2.619.500 người). Trung ngũ tỉnh (Kinh Sư, Chiết Giang, Giang Tây, Hồ Quảng, Tứ Xuyên) có 33,8 triệu người, chiếm 52% toàn quốc; trong đó Nam Trực Lệ có 11.291.460 người, mật độ nhân khẩu cao nhất là ở lực vực Tô Nam Thái Hồ với tổng số 6.320.300 người và đạt 220 người/km²; tiếp đến là Chiết Giang tỉnh với 9.959.270 người; Giang Tây có 7.260.000 người, Hồ Quảng có 4.318.420 người, Tứ Xuyên có 1.314.260 người. Nam ngũ tỉnh (Phúc Kiến, Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam, Quý Châu) có tổng cộng 10,40 triệu người, chiếm 16% toàn quốc.[59]
Nhân khẩu triều Minh đạt đỉnh cao vào hậu kỳ, song các học giả bất đồng về thời gian và số lượng cụ thể. Dịch Trung Thiên nhận định vào thời Minh mạt toàn quốc có trên 60 triệu người,[60] Hàn Văn Lâm và Tạ Thục Quân nhận định năm 1626 thì Đại Minh đạt đỉnh cao về nhân khẩu, với khoảng 99,873 triệu người,[61] Vương Dục Dân nhận định vào những năm Vạn Lịch (1573-1620) thì nhân khẩu triều Minhd dạt mức tối đa, nhân khẩu thực tế là từ 130-150 triệu người;[62] Cát Kiếm Hùng nhận định vào năm 1600 triều Minh thực tế có 197 triệu dân, vào thời đỉnh cao là sát 200 triệu người;[63] Tào Thụ Cơ nhận định nhân khẩu triều Minh lên đến đỉnh cao vào năm 1630 với nhân khẩu thực tế là khoảng 192,51 triệu người, sang năm 1644 thì số nhân khẩu thực tế giảm còn khoảng 152,47 triệu người;[64] nhà kinh tế học Anh Quốc Angus Maddison thì nhận định vào năm 1600 nhân khẩu thực tế của triều Minh đạt khoảng 160 triệu người.[65]
Cuối năm năm Gia Tĩnh thời Minh Thế Tông, các loại cây trồng cao sản đến từ châu Mỹ bắt đầu được truyền bá đến Trung Quốc, trở nên phổ biến tại những vùng có mật độ dân cư cao nhất như Giang-Chiết hay Lĩnh Nam. Đặc biệt là qua Vạn Lịch trung hưng, nhân khẩu tăng trưởng nhanh và ổn định, có học giả ước tính thì đạt đến mức chưa từng có là 150 triệu người, phân bổ vẫn không đổi. Từ Sùng Trinh thứ 11 (1640) thời Minh Tư Tông đến năm Thuận Trị thứ 7 (1650) thời Thanh Thế Tổ, do chiến tranh cùng mất mùa và dịch bệnh nên số người tử vong gia tăng, đặc biệt là bùng phát dịch hạch và hạn hán ở phương bắc, quân Bát kỳ nhập quan tiến hành giết hại và buộc người Hán phải thiên di để đề phòng họ phản kháng, khiến nhân khẩu giảm thiểu rất nhiều, chưa bằng một nửa so với trước đó, riêng phương bắc giảm xuống chỉ chưa bằng 20%.[66]
Kế tục triều Nguyên, triều Minh phân cư dân thành "dân hộ", "quân hộ", "tượng hộ", những người làm thủ công nghiệp nhập tượng tịch. Tượng tịch và quân tịch có địa vị thấp hơn so với dân tịch, không được ứng thí, đồng thời phải kế thừa nghề của đời trước. Việc thoát khỏi hộ tịch ban đầu là khó khăn, cần phải được Hoàng đế đặc chỉ phê chuẩn.
Niên đại | Số hộ | Số khẩu | Ghi chú |
---|---|---|---|
Năm Hồng Vũ thứ 14 (1381) thời Minh Thái Tổ | 10.654.362 hộ | 59.873.305 người[67] | |
Năm Hồng Vũ thứ 26 (1393) thời Minh Thái Tổ | 10.652.870 hộ | 60.545.812 người | nay có học giả ước tính số nhân khẩu thực tế đạt 65.000.000 người。 |
Năm Vĩnh Lạc thứ 1 (1403) thời Minh Thành Tổ | 11.415.829 hộ | 66.598.337 người | |
Năm Vĩnh Lạc thứ 2 (1404) thời Minh Thành Tổ | 9.685.020 hộ | 50.950.470 người | |
Năm Thành Hóa thứ 16 (1479) thời Minh Hiến Tông | ước tính thực tế có 71.850.000 người | ||
Năm Thành Hóa thứ 24 (1488) thời Minh Hiến Tông | ước tính thực tế có 75.000.000 người | ||
Năm Hoằng Trị thứ 4 (1491) thời Minh Hiếu Tông | 9.113.446 hộ | 53.281.158 người | |
Năm Hoằng Trị thứ 15 (1502) thời Minh Hiếu Tông | 10.409.788 hộ | 50.908.672 người[68] | |
Năm Hoằng Trị thứ 17 (1504) thời Minh Hiếu Tông | 10.508.935 hộ | 60.105.835 người | |
Năm Vạn Lịch thứ 6 (1578) thời Minh Thần Tông | 10.621.436 hộ | 60.692.856 người | |
Năm Thái Xương thứ 1 (1620) thời Minh Quang Tông | 9.835.426 hộ | 51.655.459 người[69] | Theo ước tính nhân khẩu thực tế vào những năm Vạn Lịch trong khoảng 130-150 triệu người. |
Năm Sùng Trinh thứ 17 (1644) thời Minh Tư Tông | ước tính thực tế có 100 triệu người | ||
Chú: số liệu lấy theo "Minh sử•quyển 77•thực hóa nhất", "Minh Thái Tổ thực lục". |
Kinh tế nông nghiệp
Văn hóa
Tư tưởng học thuật
Văn học
Tôn giáo
Giáo dục
Nghệ thuật
Khoa học kỹ thuật
=Xã hội
Danh sách hoàng đế
(1)Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương 1328-1368-1398 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Minh Hưng Tông Chu Tiêu 1355-1392 | (3)Minh Thành Tổ Chu Đệ 1360-1402-1424 | Đường Định vương Chu Kinh 1388-1415 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
(2)Minh Huệ Đế Chu Doãn Văn 1377-1398-1402-? | (4)Minh Nhân Tông Chu Cao Sí 1378-1424-1425 | Đường Hiến vương Chu Quỳnh Đát 1412-1475 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
(5)Minh Tuyên Tông Chu Chiêm Cơ 1398-1425-1435 | Hoài Tĩnh vương Chu Chiêm Áo 1409-1446 | Đường Trang vương Chu Chi Chỉ 1432-1485 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
(6)Minh Anh Tông Chu Kì Trấn 1427-1435-1449 1457-1464 | (7)Minh Đại Tông Chu Kì Ngọc 1428-1449-1457 | Hoài Khang vương Chu Kì Thuyên 1435-1502 | Đường Cung vương Chu Di Kiềm | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
(8)Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm 1447-1464-1487 | Hoài Đoan vương Chu Kiến Điến ?-1502 | Chu Triết Tông Chu Vũ Ôn 1485-1560 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
(9)Minh Hiếu Tông Chu Hựu Đường 1470-1487-1505 | Minh Duệ Tông Chu Hữu Nguyên 1476-1519 | Hoài Trang vương Chu Hựu Quỹ 1500-1537 | Minh Thuần Tông Chu Trụ Vĩnh 1538-1564 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
(10)Minh Vũ Tông Chu Hậu Chiếu 1491-1505-1521 | (11)Minh Thế Tông Chu Hậu Thông 1507-1521-1567 | Hoài Hiến vương Chu Hậu Trù 1519-1563 | Chu Định Tông Chu Thạc Hoàng ?-1632 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
(12)Minh Mục Tông Chu Tái Hậu 1537-1567-1572 | Hoài Thuận vương Chu Tái Kiên ?-1595 | Chu Dụ Tông Chu Khí Thịnh | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
(13)Minh Thần Tông Chu Dực Quân 1563-1572-1620 | Hoài vương Chu Dực Cự ?-1616 | (NM.2)Minh Thiệu Tông Chu Duật Kiện 1602-1645-1646 | (NM.3)Minh Văn Tông Chu Duật Việt 1605-1646-1647 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
(14)Minh Quang Tông Chu Thường Lạc 1582-1620 | Minh Cung Tông Chu Thường Tuân 1586-1641 | Minh Lễ Tông Chu Thường Doanh 1601-1645 | Đông Vũ Đế Chu Thường Thanh ?-1648-1649 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
(15)Minh Hy Tông Chu Do Hiệu 1604-1620-1627 | (16)Minh Tư Tông Chu Do Kiểm 1611-1627-1644 | (NM.1)Minh An Tông Chu Do Tung 1607-1644-1645-1646 | (NM.4)Minh Chiêu Tông Chu Do Lang 1623-1646-1662 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Điệu Đế Chu Từ Lãng 1629-1644 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Chân dung | Hoàng đế | Miếu hiệu | Thụy hiệu | Trị vì | Ghi chú | ||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Hồng Vũ | Thái Tổ (太祖) | Cao đế (高帝) | 1368 | — | 1398 | Sáng lập triều đại | |
Kiến Văn | không có | Huệ Đế (惠帝) | 1398 | — | 1402 | ||
Vĩnh Lạc | Thành Tổ (成祖) | Văn Đế (文帝) | 1402 | — | 1424 | soán ngôi Chu Doãn Văn | |
Hồng Hi | Nhân Tông (仁宗) | Chiêu Đế (昭帝) | 1424 | — | 1425 | ||
Tuyên Đức | Tuyện Tông (宣宗) | Chương đế (章帝) | 1425 | — | 1435 | ||
Chính Thống | Anh Tông (英宗) | Duệ Đế (睿帝) | 1435 | — | 1449 | ||
Cảnh Thái | Đại Tông (代宗) | Cảnh Đế (景帝) | 1449 | — | 1457 | ||
Thuận Thiên | Anh Tông (英宗) | Duệ Đế (睿帝) | 1457 | — | 1464 | cướp ngôi Cảnh Thái trong khi Cảnh Thái ốm nặng | |
Thành Hóa | Hiến Tông (憲宗) | Thuần Đế (純帝) | 1464 | — | 1487 | ||
Hoằng Trị | Hiếu Tông (孝宗) | Kính Đế (敬帝) | 1487 | — | 1505 | ||
Chính Đức | Vũ Tông (武宗) | Nghị Đế (毅帝) | 1505 | — | 1521 | ||
Gia Tĩnh | Thế Tông (世宗) | Túc Đế (肅帝) | 1521 | — | 1566 | ||
Long Khánh | Mục Tông (穆宗) | Trang Đế (莊帝) | 1566 | — | 1572 | ||
Vạn Lịch | Thần Tông (神宗) | Hiển Đế (萬曆) | 1572 | — | 1620 | ||
Thái Xương | Quang Tông (光宗) | Trinh Đế (貞帝) | 1620 | ||||
Thiên Khải | Hy Tông (熹宗) | Triết Đế (悊帝) | 1620 | — | 1627 | ||
Tập tin:Ming Chongzhen.jpg | Sùng Trinh | Tư Tông (思宗) | Trang Liệt Mẫn (莊烈愍) | 1627 | — | 1644 |
Xem thêm
- Kinh tế thời nhà Minh
- Danh sách các chư hầu của Đế quốc Trung Hoa
- Danh sách vua nhà Minh
- Lịch sử Nhật Bản
- Lịch sử Triều Tiên
- Những cuộc chinh phạt quân sự của nhà Minh
- Minh Thập Tam Lăng
- Trịnh Thành Công
Chú thích
- ^ Turchin, Peter; Adams, Jonathan M.; Hall, Thomas D (tháng 12 năm 2006). “East-West Orientation of Historical Empires” (PDF). Journal of world-systems research. 12 (2): 219–229. ISSN 1076–156x Kiểm tra giá trị
|issn=
(trợ giúp). Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2010. - ^ a b c d e Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên明太祖的開國規模
- ^ 明朱國禎《湧幢小品》卷二「國號」條:“國號上加大字,始於胡元,我朝因之。……其言大漢、大唐、大宋者,乃臣子及外夷尊稱之詞。”
- ^ a b “明朝” (bằng tiếng 中文). 中华文化信息网. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2014.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ 《明史·志第十六》:“计明初封略,东起朝鲜,西据吐蕃,南包安南,北距大碛,东西一万一千七百五十里,南北一万零九百四里。自成祖弃大宁,徙东胜,宣宗迁开平於独石,世宗时复弃哈密、河套,则东起辽海,西至嘉峪,南至琼、崖,北抵云、朔,东西万余里,南北万里。其声教所讫,岁时纳贽,而非命吏置籍,侯尉羁属者,不在此数。呜呼盛矣!“
- ^ 《明宪宗实录》:是岁天下户九百二十一万六百九十户,口七千一百八十五万一百三十二口。
- ^ 《正说明朝三百年》孙景峰李金玉著
- ^ 张宏杰 (2013). 《大明王朝的七张面孔》. 天津: 天津人民出版社. ISBN 9787201080949.
- ^ a b c d 姜公韜 (1 tháng 1 năm 2010). “第一章 元明之際”. 《中國通史 明清史》. 九州出版社. tr. 第9頁-第16頁. ISBN 9787510800627.
- ^ 傅海波&崔瑞德《劍橋中國遼西夏金元史》, 中國社會科學出版社,2006年,第668-671頁
- ^ a b c d 《明史:一個多重性格的時代》〈第一篇 第二章 開國制度與政治整肅〉. 第20頁-第45頁.
- ^ 《中國通史》第九卷,取士与文字狱
- ^ 《山西通志卷.卷一百二十二.人物二十二》
- ^ a b c 《明史:一個多重性格的時代》〈第一篇 第三章 從創業到守成的轉變〉. 第46頁-第65頁.
- ^ a b 姜公韜 (1 tháng 1 năm 2010). “第三章 制度的更張與勢力的發揚”. 《中國通史·明清史》. 九州出版社. tr. 第33頁-第49頁. ISBN 9787510800627.
- ^ 蔡石山著,江政宽译,《永乐大帝:一个中国帝王的精神肖像》,中华书局,2009年11月,ISBN 978-7-101-06977-8,第八章、永乐和蒙古人,第145-146页
- ^ 《永寧寺記》.
永樂九年春特遣內官亦失哈等率官軍一千餘人、巨船二十五艘復至其國,開設奴兒干都司。昔遼、金疇民安故業,皆相慶曰:「□□今日復見而服矣!」遂上□朝□□□都司,而餘人上授以官爵印信,賜以衣服,賞以布、鈔,大賚而還。依土立興衛所,收集舊部人民,使之自相統屬。
- ^ 《清代輯佚研究》,第39頁
- ^ 蔡石山著,江政宽译,《永乐大帝:一个中国帝王的精神肖像》,中华书局,2009年11月,ISBN 978-7-101-06977-8,第七章、文皇帝,第123-124页
- ^ 时涛,宋岩 (2009). 《图说中国历代君主帝王276——大明王朝简介》 (bằng tiếng 中文). 中国北京: 中国长安出版社. ISBN 9787510700873.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ 《明通鑑·卷22》:「(張太皇太后言)皇帝年幼,岂知此辈自古祸人家国?我听帝暨诸大臣留振,此后不得令干国事也。」
- ^ 《明史紀事本末·卷29》:「朕自在春宫,至登大位,几二十年。尔夙夜在侧,寝食弗违,保护赞辅,克尽乃心,正言忠告,裨益实多。」
- ^ 《明史紀事本末·卷29·王振用事》:「(樊忠言)吾為天下誅此賊。」
- ^ a b c d Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên土木之變
- ^ 《明史·卷170·于謙傳》:「臨陣將不顧軍先退者,斬其將;軍不顧將先退者,後隊斬前隊;敢違軍令者,格殺勿論。」
- ^ 沈一民 (2009). 《盛世中国·明朝卷·土木之变》 (bằng tiếng 中文). 华艺出版社. ISBN 9787802520509. Đã bỏ qua tham số không rõ
|coauthors=
(gợi ý|author=
) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết) - ^ 查繼佐.《罪惟錄·列傳卷2·皇后列傳》皇太后周氏曰:「彼有何美,而承恩多?”明憲宗曰:“彼抚摩吾安之,不在貌也。”
- ^ a b 姜公韜 (1 tháng 1 năm 2010). “第四章 明朝中後期的政局”. 《中國通史 明清史》. 九州出版社. tr. 第51頁-第71頁. ISBN 9787510800627.
- ^ 夏燮.《明通鑑·卷40》。
- ^ 《明史·卷304·懷恩傳》:「一时正人汇进,恩之力也。」
- ^ a b c d e 《明史:一個多重性格的時代》〈第二篇 第九章 從弘治中興到正德亂局 第三篇 第十二章 嘉靖初政與大禮紛爭〉. 第159頁-第171頁. 第211頁-第224頁
- ^ 王其榘《明代內閣制度史》,中華書局,1989年
- ^ “大太监刘瑾擅权” (bằng tiếng 中文). 中国网. 3 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2014.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ a b c d e 《明史:一個多重性格的時代》〈第三篇 第十三章 世宗失道與隆萬改革 第十四章 北虜南倭問題及其解決方法〉. 第227頁-第271頁.
- ^ “张居正变法与万历怠政”. 凤凰网. 25 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2014.
- ^ 樊树志 (樊树志). 《万历皇帝传》 (bằng tiếng 中文). 凤凰出版社(原江苏古籍出版社). ISBN 9787807297956. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|year=
(trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết) - ^ a b c d “第四篇 第十七章 神宗貪怠與東林會議”. 《明史:一個多重性格的時代》. tr. 第327頁-第345頁.
- ^ 《明实录·神宗实录》卷一.
上明习政事,乾纲独揽,予夺进退,莫可测识。晚颇厌言官,章奏概置不报。然每遇大事,未尝不折衷群议归之。圣裁中外,振耸四封。
- ^ “明代中后期的商业税收研究” (bằng tiếng Trung). 林枫. 12 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2011.
- ^ 黃仁宇. 《萬曆十五年》. 生活·讀書·新知三聯書店.
- ^ 《明史·卷224·孫鑨傳》、《明史·卷243·趙南星傳》、文秉·《定陵註略·卷三·癸巳大計》
- ^ 《明史·卷350·陳增傳》.
寧夏用兵,費帑金二百餘萬。其冬,朝鮮用兵,首尾八年,費帑金七百餘萬。二十七年,播州用兵,又費帑金二三百萬。三大征踵接,國用大匱
- ^ 《明史·卷123·王德完傳》.
近歲寧夏用兵,費百八十餘萬;朝鮮之役,七百八十餘萬;播州之役,二百餘萬
- ^ 《明实录·神宗实录》卷之五百九十六,七月丙申条.
上疾大渐,召英国公张惟贤、大学士方从哲、吏部尚书周嘉谟、户部尚书李汝华、兵部尚书董嘉善、署刑部事摠督仓场尚书张问达、署工部事协理戎政尚书黄克缵、礼部右侍郎孙如游等入见于弘德殿。勉以用心办事,大小诸臣各致词问安。尚书周嘉谟仍以用人为请随赐。俞允诸臣叩头而出。上谕内阁:‘朕嗣祖宗大统历今四十八年,久因国事焦劳以致脾疾,遽不能起。有负先皇付托惟。皇太子青宫有年,实赖卿与司礼监协心辅佐。遵守祖制,保固皇图,卿功在社稷万世不泯。’是日,上崩。
- ^ a b c d e f g “第四篇 第十九章 天啟崇禎年間的政治亂象 第二十章 內外威脅與明朝滅亡”. 《明史:一個多重性格的時代》. tr. 第363頁-第404頁.
- ^ 《明季北略》(卷2).
予按郑贵妃慧人也,神宗宠之,生福王;李选侍郑党也,光宗宠之。当光宗登极,郑、李进美人等,遂致不起。光宗崩,李选侍犹居干清宫,欲与熹宗同居,邀封后,垂帘称制;而杨、左等以选侍素无德,又非生母、嫡母与养母,恐有武氏之祸,必欲令选侍出干清宫,不与熹宗同居,竖议甚正,未免稍激,遂为群小所忌,而祸自此始矣。
- ^ 韩大成 (1997). 《魏忠贤传》 (bằng tiếng 中文). 北京: 人民出版社. ISBN 9787010022987.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ “崇祯智除魏忠贤”. 农村新报 (bằng tiếng 中文). 7 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2014.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ 陈时龙 (1 tháng 1 năm 2005). “<思宗朱由检>”. 《正说明朝十六帝》 (bằng tiếng 中文). 北京: 中华书局. ISBN 9787101045499. Đã bỏ qua tham số không rõ
|coauthors=
(gợi ý|author=
) (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết) - ^ 抱陽生. “卷六提到”. 《甲申朝事小計》.
崇禎十六年二月北京,“大疫,人鬼錯雜。薄暮人屏不行。貿易者多得紙錢,置水投之,有聲則錢,無聲則紙。甚至白日成陣,牆上及屋脊行走,揶揄居人。每夜則痛哭咆哮,聞有聲而逐有影”。谷應泰《明史紀事本末》卷七十八中說「“京師內外城堞凡十五萬四千有奇,京營兵疫,其精銳又太監選去,登陴訣羸弱五六萬人,內閹數千人,守陴不充”。
- ^ a b c d 姜公韜. “第五章 明清之際”. 《中國通史 明清史》. tr. 第73頁-第93頁.
- ^ 刘健《庭闻录》记:“七月十九日,缅酋尽杀永历从臣。”
- ^ Ebrey (1999), 192-193.
- ^ Fairbank & Goldman (2006), 130.
- ^ 陳高華、陳尚勝.《中國海外交通史》.台北.文津出版社.1997 年.
- ^ 《明史:一個多重性格的時代》〈第一篇 第四章 邊疆經營與對外交往〉. 第66頁-第80頁
- ^ a b 《明史:一個多重性格的時代》〈第三篇 第十四章 北虜南倭問題及其解決〉. 第256頁-第266頁
- ^ 《明史:一個多重性格的時代》〈第四篇 第十八章 邊疆與民族問題的新挑戰〉. 第352頁-第358頁
- ^ “第五章 〈封建社會唐(後期)宋遼金元的經濟〉”. 《中國古代經濟簡史》. 復旦大學. 1982年. tr. 第154頁-第165頁.
- ^ 易中天 (2007年11月). 《帝国的终结》. 复旦大学出版社. tr. 第254页. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|date=
(trợ giúp) - ^ 赵文林、谢淑君 (1988年). 《中国人口史》. 人民出版社. tr. 第376页.
- ^ 王育民. 《中国历史地理概论》 . 人民教育出版社. tr. 第109页.
- ^ 葛剑雄 (1991年). 《中国人口发展史》. 福建人民出版社. tr. 第241页.
- ^ 曹树基 (2000年9月). 《中国人口史》(第四卷)明时期. 复旦大学出版社. tr. 第452页. Đã bỏ qua văn bản “《中国人口史》共六卷,由葛剑雄教授主编” (trợ giúp); Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|date=
(trợ giúp) - ^ 英国经济学家 安格斯•麦迪森 著. 《世界经济千年史》. 伍晓鹰 许宪春 叶燕斐 施发启 译 . 北京大学出版社. tr. 第27页.
- ^ 姜公韜 (1 tháng 1 năm 2010). “第七章 五百年社會文化的掠影”. 《中國通史 明清史》. 九州出版社. tr. 第119頁-第126頁. ISBN 9787510800627.
- ^ 《明太祖实录 卷140》
- ^ 《明孝宗实录 卷194》
- ^ 《明熹宗实录 卷4》
Tài liệu tham khảo
- Information Office of the State Council of the People's Republic of China (2002). Testimony of History. Beijing: China Intercontinental Press.
- The Ming Biographical History Project of the Association for Asian Studies. (1976). Dictionary of Ming Biography, 1368–1644: 明代名人傳: Volume 1, A-L. Edited by L. Carrington Goodrich and Chaoying Fang. New York: Columbia University Press. ISBN 0-231-03801-1.
- Andrew, Anita N. and John A. Rapp. (2000). Autocracy and China's Rebel Founding Emperors: Comparing Chairman Mao and Ming Taizu. Lanham: Rowman & Littlefield Publishers Inc. ISBN 0-8476-9580-8.
- Atwell, William S. "Time, Money, and the Weather: Ming China and the "Great Depression" of the Mid-Fifteenth Century," The Journal of Asian Studies (Volume 61, Number 1, 2002): 83-113.
- Brook, Timothy. (1998). The Confusions of Pleasure: Commerce and Culture in Ming China. Berkeley: University of California Press. ISBN 0-520-22154-0 (Paperback).
- Chan, Hok-Lam. (1988). "The Chien-wen, Yung-lo, Hung-shi, and Hsuan-te reigns," in The Cambridge History of China: Volume 7, The Ming Dynasty, 1368–1644, Part 1, 182-384, edited by Denis Twitchett and John K. Fairbank. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 0-521-24332-7.
- Chang, Michael G. (2007). A Court on Horseback: Imperial Touring & the Construction of Qing Rule, 1680-1785. Cambridge: Published by Harvard University Asia Center; distributed by Harvard University Press. ISBN 0-674-02454-0.
- Crosby, Alfred W., Jr. (2003). The Columbian Exchange: Biological and Cultural Consequences of 1492; 30th Anniversary Edition. Westport: Praeger Publishers. ISBN 0-275-98092-8.
- Dreyfus, Georges. (2003). "Cherished memories, cherished communities: proto-nationalism in Tibet," in The History of Tibet: Volume 2, The Medieval Period: c. AD 850–1895, the Development of Buddhist Paramountcy, 492-522, ed. Alex McKay. New York: Routledge. ISBN 0-415-30842-9.
- Ebrey, Patricia Buckley, Anne Walthall, James B. Palais. (2006). East Asia: A Cultural, Social, and Political History. Boston: Houghton Mifflin Company. ISBN 0-618-13384-4.
- Ebrey, Patricia Buckley (1999). The Cambridge Illustrated History of China. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 0-521-66991-X
- Engelfriet, Peter M. (1998). Euclid in China: The Genesis of the First Translation of Euclid's Elements in 1607 & Its Reception Up to 1723. Leiden: Koninklijke Brill. ISBN 90-04-10944-7.
- Fairbank, John King & Goldman, Merle (2006). China: A New History; Second Enlarged Edition. ISBN 0-674-01828-1
- Gascoigne, Bamber. (2003). The Dynasties of China: A History. New York: Carroll & Graf Publishers. ISBN 0-7867-1219-8 (Paperback).
- Geiss, James. (1988). "The Cheng-te reign, 1506-1521," in The Cambridge History of China: Volume 7, The Ming Dynasty, 1368–1644, Part 1, 403-439, edited by Denis Twitchett and John K. Fairbank. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 0-521-24332-7.
- Gernet, Jacques (1962). Daily Life in China on the Eve of the Mongol Invasion, 1250-1276. Translated by H. M. Wright. Stanford: Stanford University Press. ISBN 0-8047-0720-0
- Goldstein, Melvyn C. (1997). The Snow Lion and the Dragon: China, Tibet and the Dalai Lama. Berkeley: University of California Press. ISBN 0-520-21951-1.
- Hargett, James M. "Some Preliminary Remarks on the Travel Records of the Song Dynasty (960-1279)," Chinese Literature: Essays, Articles, Reviews (Clear) (July 1985): 67-93.
- Hartwell, Robert M. "Demographic, Political, and Social Transformations of China, 750-1550," Harvard Journal of Asiatic Studies (Volume 42, Number 2, 1982): 365–442.
- Ho, Ping-ti. (1959). Studies on the Population of China: 1368-1953. Cambridge: Harvard University Press.
- Hoffman, Helmut. (2003). "Early and Medieval Tibet" in The History of Tibet: Volume 1, The Early Period to c. AD 850, the Yarlung Dynasty, 45-69, ed. Alex McKay. New York: Routledge. ISBN 0-415-30842-9.
- Hucker, Charles O. "Governmental Organization of The Ming Dynasty," Harvard Journal of Asiatic Studies (Volume 21, December 1958): 1-66.
- Li, Bo and Zheng Yin. (2001). 5000 years of Chinese history. Inner Mongolian People's Publishing Corp. ISBN 7-204-04420-7.
- Kuttner, Fritz A. "Prince Chu Tsai-Yü's Life and Work: A Re-Evaluation of His Contribution to Equal Temperament Theory," Ethnomusicology, Vol. 19, No. 2 (May, 1975): 163-206.
- Laird, Thomas. (2006). The Story of Tibet: Conversations with the Dalai Lama. New York: Grove Press. ISBN 978-0-8021-827-1.
- Langlois, John D., Jr. (1988). "The Hung-wu reign, 1368-1398," in The Cambridge History of China: Volume 7, The Ming Dynasty, 1368–1644, Part 1, 107-181, edited by Denis Twitchett and John K. Fairbank. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 0-521-24332-7.
- Lipman, Jonathan. (1998). Familiar Strangers: A History of Muslims in Northwest China. Seattle: University of Washington Press.
- Mote, Frederick W. and Denis Twitchett. (1998). The Cambridge History of China; Volume 7-8. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 0-521-24333-5 (Hardback edition).
- Needham, Joseph (1986). Science and Civilization in China: Volume 3, Mathematics and the Sciences of the Heavens and the Earth. Taipei: Caves Books, Ltd.
- Needham, Joseph (1986). Science and Civilization in China: Volume 4, Physics and Physical Technology, Part 2, Mechanical Engineering. Taipei: Caves Books Ltd.
- Needham, Joseph (1986). Science and Civilization in China: Volume 4, Physics and Physical Technology, Part 3, Civil Engineering and Nautics. Taipei: Caves Books Ltd.
- Needham, Joseph (1986). Science and Civilization in China: Volume 5, Chemistry and Chemical Technology, Part 7, Military Technology; the Gunpowder Epic. Taipei: Caves Books Ltd.
- Needham, Joseph (1986). Science and Civilization in China: Volume 6, Biology and Biological Technology, Part 2: Agriculture. Taipei: Caves Books, Ltd.
- Norbu, Dawa. (2001). China's Tibet Policy. Richmond: Curzon. ISBN 0-7007-0474-4.
- Nowell, Charles E. "The Discovery of the Pacific: A Suggested Change of Approach," The Pacific Historical Review (Volume XVI, Number 1; February, 1947): 1-10.
- Perdue, Peter C. (2000). "Culture, History, and Imperial Chinese Strategy: Legacies of the Qing Conquests," in Warfare in Chinese History, 252-287, edited by Hans van de Ven. Leiden: Koninklijke Brill. ISBN 90-04-11774-1.
- Pfoundes, C. "Notes on the History of Eastern Adventure, Exploration, and Discovery, and Foreign Intercourse with Japan," Transactions of the Royal Historical Society (Volume X; 1882): 82-92.
- Robinson, David M. "Banditry and the Subversion of State Authority in China: The Capital Region during the Middle Ming Period (1450-1525)," Journal of Social History (Spring 2000): 527-563.
- Robinson, David M. "Politics, Force and Ethnicity in Ming China: Mongols and the Abortive Coup of 1461," Harvard Journal of Asiatic Studies (Volume 59, Number 1, June 1999): 79-123.
- Schafer, Edward H. "The Development of Bathing Customs in Ancient and Medieval China and the History of the Floriate Clear Palace," Journal of the American Oriental Society (Volume 76, Number 2, 1956): 57-82.
- Song, Yingxing (1966). T'ien-Kung K'ai-Wu: Chinese Technology in the Seventeenth Century. Translated with preface by E-Tu Zen Sun and Shiou-Chuan Sun University Park: Pennsylvania State University Press.
- Spence, Jonathan D. (1999). The Search For Modern China; Second Edition. New York: W. W. Norton & Company. ISBN 0-393-97351-4 (Paperback).
- Sperling, Elliot. (2003). "The 5th Karma-pa and some aspects of the relationship between Tibet and the Early Ming," in The History of Tibet: Volume 2, The Medieval Period: c. AD 850–1895, the Development of Buddhist Paramountcy, 473–482, ed. Alex McKay. New York: Routledge. ISBN 0-415-30842-9.
- Temple, Robert. (1986). The Genius of China: 3,000 Years of Science, Discovery, and Invention. With a forward by Joseph Needham. New York: Simon and Schuster, Inc. ISBN 0-671-62028-2.
- Wakeman, Frederick, Jr. "Rebellion and Revolution: The Study of Popular Movements in Chinese History," The Journal of Asian Studies (1977): 201-237.
- Wang, Jiawei and Nyima Gyaincain. (1997). The Historical Status of China's Tibet. Beijing: China Intercontinental Press. ISBN 7-80113-304-8.
- White, William Charles. (1966). The Chinese Jews (Vol. 1-3). New York: Paragon Book Reprint Corporation.
- Wong, H.C. "China's Opposition to Western Science during Late Ming and Early Ch'ing," Isis (Volume 54, Number 1, 1963): 29-49.
- Wylie, Turrell V. (2003). "Lama Tribute in the Ming Dynasty" in The History of Tibet: Volume 2, The Medieval Period: c. AD 850-1895, the Development of Buddhist Paramountcy, ed. Alex McKay. New York: Routledge. ISBN 0-415-30842-9.
- Yuan, Zheng. "Local Government Schools in Sung China: A Reassessment," History of Education Quarterly (Volume 34, Number 2; Summer 1994): 193–213.
Đọc thêm
- Huang, Ray. 1587, A Year of No Significance: The Ming Dynasty in Decline. New Haven: Yale University Press, 1982.
- Brook, Timothy. The Confusions of Pleasure: commerce and culture in Ming China. Berkeley: University of California Press, 1998
- Source for "Fall of the Míng Dynasty":- Dupuy and Dupuy's "Collins Encyclopedia of Military History"
Liên kết ngoài
- The Ming Dynasty at Minnesota State University
- Notable Ming Dynasty Painters and Galleries tại Bảo tàng Trung Hoa trực tuyến
- Ming Dynasty art at the Metropolitan Museum of Art
- Ming Dynasty Với tổng cộng 16 Hoàng đế, nhà Minh cai trị Trung Hoa 276 năm, từ 1368 đến 1644.
Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ <ref>
với tên nhóm “chú thích”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng <references group="chú thích"/>
tương ứng