Bước tới nội dung

Huy Fong Foods

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Đây là một phiên bản cũ của trang này, do Qbot (thảo luận | đóng góp) sửa đổi vào lúc 04:25, ngày 20 tháng 9 năm 2010 (Qbot: Việt hóa). Địa chỉ URL hiện tại là một liên kết vĩnh viễn đến phiên bản này của trang, có thể khác biệt rất nhiều so với phiên bản hiện hành.

Huy Fong Foods (Công ty Thực phẩm Hối Phong) là một công ty sản xuất tương ớt của Hoa Kỳ. Công ty được thành lập vào năm 1980 ở khu Hoa kiều tại Los Angeles, California, và hiện nay là một trong những hãng tương ớt châu Á lớn nhất.

Khi Huy Fong Foods mới mở cửa, nó sản xuất loại tương ớt đầu tiên, tương ớt sa tế (Pepper Saté Sauce), bằng tay. Tương ớt này được chế bởi nhà sáng lập công ty, David Trần, người nông dân Việt Nam ngày xưa trồng cây ớt và sản xuất và bán tương ớt này ở Việt Nam trước khi qua nước Mỹ trong thời Chiến tranh Việt Nam. Công ty được đặt tên theo tàu vượt biên chở thuyền nhân David Trần đến Hồng Kông năm 1978, và biểu trưng con gà trống do David Trần được sinh vào năm "gà" theo Can Chi.

Sau đó, David Trần bắt đầu sản xuất bốn loại tương ớt khác: Tương Ớt Tỏi Việt-Nam (Chili Garlic Sauce), Sambal Oelek (tương ớt băm tươi), Sambal Badjak (tương ớt hành Tây), và tương ớt Sriracha. Sriracha là sản phẩm nổi tiếng nhất của Huy Fong Foods, chai dễ nhận ra do màu đỏ tươi, nắp xanh (chỉ đến ớt tươi), chữ trong sáu ngôn ngữ (tiếng Việt, Anh, Thái, Trung Quốc, Tây Ban Nha, và Pháp), và biểu trưng con gà trống.

Năm 1986, Huy Fong Foods mua một nhà hãng 6.300 mét vuông (68.000 foot vuông) ở Rosemead, California. Công ty này cũng mua miếng đất gần San Diego, California để trồng cây ớt cho những sản phẩm. Tương ớt của Huy Fong Foods làm bằng ớt jalapeño đỏ tươi. Cả năm loại tương được sản xuất ở hãng Rosemead.

Tham khảo

  • Nakamura, Eric (1997). “The Famous Hot Sauce Factory Tour!”. Giant Robot (9). tr. 32–33. Đã định rõ hơn một tham số trong |author=|last= (trợ giúp)
  • David Tran: The Emperor of Hot Sauce, Los Angeles magazine, April 2001
  • A Chili Sauce to Crow About , The New York Times, 20 tháng 5 năm 2009.

Liên kết ngoài