Bước tới nội dung

Lê Đức Anh

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Đây là một phiên bản cũ của trang này, do 103.7.36.59 (thảo luận) sửa đổi vào lúc 07:51, ngày 1 tháng 5 năm 2019 (Có nguồn). Địa chỉ URL hiện tại là một liên kết vĩnh viễn đến phiên bản này của trang, có thể khác biệt rất nhiều so với phiên bản hiện hành.

Lê Đức Anh
(Sáu Nam)
Chức vụ
Nhiệm kỳ23 tháng 9 năm 1992 – 23 tháng 9 năm 1997
5 năm, 0 ngày
Tiền nhiệmVõ Chí Công
Kế nhiệmTrần Đức Lương
Vị trí Việt Nam
Nhiệm kỳtháng 6 năm 1991 – tháng 9 năm 1992
Tiền nhiệmNguyễn Thanh Bình
Kế nhiệmĐào Duy Tùng
Nhiệm kỳ16 tháng 2 năm 1987 – 10 tháng 8 năm 1991
4 năm, 175 ngày
Tiền nhiệmVăn Tiến Dũng
Kế nhiệmĐoàn Khuê
Nhiệm kỳtháng 12 năm 1986 – 16 tháng 2 năm 1987
Tiền nhiệmLê Trọng Tấn
Kế nhiệmĐoàn Khuê
Vị tríQuân đội Nhân dân Việt Nam
Nhiệm kỳ31 tháng 3 năm 1982 – 29 tháng 12 năm 1997
15 năm, 273 ngày
Vị trí Việt Nam
Nhiệm kỳ1981 – 1986
Tư lệnh Quân khu 7
Nhiệm kỳ1978 – 1981
Tiền nhiệmTrần Văn Trà
Kế nhiệmĐồng Văn Cống
Tư lệnh Quân khu 9
Nhiệm kỳ1974 – 1975
Tiền nhiệmPhạm Ngọc Hưng
Kế nhiệmNguyễn Chánh
Nhiệm kỳ1975 – 1976
Tư lệnh Quân khu 9
Nhiệm kỳ1969 – 1973
Tiền nhiệmĐồng Văn Cống
Kế nhiệmPhạm Ngọc Hưng
Thông tin cá nhân
Sinh(1920-12-01)1 tháng 12, 1920
huyện Phú Vang, Thừa Thiên, Trung Kỳ, Liên bang Đông Dương
Mất22 tháng 4, 2019(2019-04-22) (98 tuổi)
nhà Công vụ, số 5A, phố Hoàng Diệu, Thành phố Hà Nội.
Dân tộcKinh
Tôn giáoKhông
Đảng chính trịĐảng Cộng sản Việt Nam
Vợ
  • Phạm Thị Anh (s. 1925-m. 2011)
  • Võ Thị Lê (s. 1928 - m. 2016)
Con cái
  • Lê Xuân Hồng (s. 1951)
  • Lê Mạnh Hà (s. 1957)
  • Lê Xuân Hồng (s. 1959)
Chữ ký
Phục vụ trong quân đội
Thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam
Năm tại ngũ19451992
Cấp bậc
Chỉ huy Việt Minh
Quân Giải phóng Miền Nam
Quân đội nhân dân Việt Nam
Tham chiến
Tặng thưởng

Huân chương Hồ Chí Minh

Lê Đức Anh (1 tháng 12 năm 1920 - 22 tháng 4 năm 2019) là Chủ tịch nước thứ tư của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 19921997. Trước đó ông từng là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Đại tướng, từng là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam (19871991), Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (19861987).

Tiểu sử

Lê Đức Anh, sinh ngày 1 tháng 12 năm 1920 tại huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên – Huế, quê quán tại xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế.[1]

Ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 5/1938.[1]

Năm 1944, ông tổ chức và Phụ trách các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh. Khi Cách mạng Tháng Tám nổ ra, Lê Đức Anh tổ chức lực lượng gồm 300 người, trang bị vũ khí vừa thu được và giáo mác, tầm vông... kéo xuống thị xã Thủ Dầu Một tham gia tổng khởi nghĩa.

Tháng 8 năm 1945, ông tham gia quân đội, giữ các chức vụ từ Trung đội trưởng đến Chính trị viên Tiểu đoàn, chi đội 1 và Trung đoàn 301. Từ tháng 10 năm 1948 đến năm 1950, ông là tham mưu trưởng các Quân khu 7, Quân khu 8 và đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Từ năm 1951 đến 1954, giữ chức tham mưu phó, quyền tham mưu trưởng bộ tư lệnh Nam Bộ.[2]

Sau Hiệp định Genève, ông tập kết ra Bắc. Tháng 5 năm 1955, ông được cử giữ chức Cục phó Cục Tác chiến, rồi Cục trưởng Cục Quân lực Bộ Tổng Tham mưu; hàm Đại tá (1958). Từ tháng 8 năm 1963, ông giữ chức Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam Lê Đức Anh trong Chiến tranh Việt Nam trước năm 1960.

Tháng 2 năm 1964, ông được điều vào Nam với bí danh Sáu Nam, giữ chức Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Miền Nam. Năm 1969, được điều về làm Tư lệnh Quân khu 9.

Cuối năm 1974, ông được điều trở lại chức Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam và được phong vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng. Trong 11 năm tham gia đánh Mỹ, ông đã trực tiếp chỉ huy 4 trận đánh lớn:

  • Mùa khô năm 1966 - 1967, tướng Lê Đức Anh trực tiếp chỉ đạo đánh bại Chiến dịch Junction City của quân đội Mỹ và các nước chư hầu.
  • Năm 1973, ông chỉ huy việc phá âm mưu bình địa, tràn ngập lãnh thổ sau khi có Hiệp định Paris của quân đội Sài Gòn ở địa bàn quân khu 9.
  • Năm 1974, ông chỉ huy chiến dịch Đường 14 - Phước Long, giải phóng tỉnh Phước Long và thăm dò khả năng phản công của quân đội Sài Gòn.
  • Năm 1975, ông được cử giữ chức Phó Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh, kiêm Tư lệnh cánh quân Tây Nam đánh vào Sài Gòn.

Từ tháng 5 năm 1976, ông là Tư lệnh Quân khu 9. Đến tháng 6 năm 1978, là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, chỉ huy trưởng cơ quan tiền phương Bộ Quốc phòngmặt trận Tây-Nam; được phong Thượng tướng năm 1980. Năm 1981, khi đang giữ chức Tư lệnh Quân khu 7, ông được phân công kiêm chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, Phó trưởng ban, rồi Trưởng ban lãnh đạo chuyên gia Việt Nam tại Campuchia. Năm 1984, ông được phong hàm Đại tướng.

Tháng 12 năm 1986, ông được cử giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Từ ngày 16 tháng 2 năm 1987[3] đến 10 tháng 8 năm 1991, ông là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, phó bí thư thứ nhất Đảng ủy Quân sự Trung ương. Khi Bộ Chính trị họp đã thông qua kế hoạch điều chỉnh chiến lược và giảm quân số quân đội của ông, từ 1,5 triệu quân thường trực xuống còn 45 vạn (từ 9 quân đoàn giảm xuống còn 4 quân đoàn), gánh nặng ngân sách quốc phòng được giải tỏa[4].

Năm 1988, trong chuyến thị sát tại quần đảo Trường Sa, Lê Đức Anh trên cương vị Bộ trưởng Quốc phòng đã dự lễ kỷ niệm 33 năm ngày truyền thống của Quân chủng Hải quân Việt Nam (7/5/1955-7/5/1988). Chuyến thăm diễn ra ngay sau khi Trung Quốc nổ súng vào tàu vận tải của Việt Nam tại đảo Gạc Ma rạng sáng 14/3 làm 64 chiến sĩ trên tàu HQ-604 hy sinh. Ông phát biểu: "...chúng ta xin thề trước hương hồn của tổ tiên ta, trước hương hồn của cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa với đồng bào cả nước, xin nhắn nhủ với các thế hệ mai sau "Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu của chúng ta"[5].

Năm 1991 là Thường trực Bộ chính trị. Năm 1992, ông được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam bầu vào chức vụ Chủ tịch nước. Ông cũng là Ủy viên BCH TƯ khóa IV-VIII, Ủy viên Bộ Chính trị khóa V-VIII, Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII; đại biểu Quốc hội khóa VI, VIII, IX.

Ông là một trong số ít những cán bộ quân đội đã trải qua cả 4 chiến trường trong suốt 40 năm: Tham gia 9 năm kháng chiến chống Pháp, tham gia chỉ huy tại chiến trường miền Nam chống Mỹ trong 11 năm (1964-1975), chỉ huy chiến trường Campuchia trong 7 năm (1979-1986), tham gia chỉ huy chiến trường biên giới phía Bắc trong 3 năm (1986-1989).

Ngày 22 tháng 4 năm 2019, vì tuổi đã cao, sức yếu, ông qua đời ở tuổi 98, hưởng thọ tuổi 99 tại nhà Công vụ, Hoàng Diệu, Hà Nội.[6][2]

Chủ tịch nước

Vào ngày 23 tháng 9 năm 1992, ông là người kế nhiệm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công và do đó là Chủ tịch nước Việt Nam. Mặc dù vị trí này (theo phương Tây) chủ yếu mang tính biểu tượng, chức Chủ tịch nước trở nên quan trọng hơn nhiều trong nhiệm kỳ của ông.[7] Ông giữ chức danh này cho đến khi được Trần Đức Lương thay thế vào ngày 24 tháng 9 năm 1997.

Tướng Lê Đức Anh đã được ghi công với một số giải thưởng, bao gồm Huân chương Sao Vàng và Huân chương Hồ Chí Minh.

Trong cuốn sách của mình, tác giả Bolton cho rằng Lê Đức Anh được nhiều người coi là (về mặt tư tưởng) là người bảo thủ nhất trong số ba nhà lãnh đạo chính trị trong nhiệm kỳ của mình.[7] Thủ tướng Võ Văn Kiệt được cho là ủng hộ cải cách[8] và do đó thường không đồng ý với Lê Đức Anh. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười thì linh hoạt hơn về mặt tư tưởng và được coi là đại diện cho sự trung dung giữa Anh và Kiệt, nhưng dường như có xu hướng bảo thủ.[9] Bolton cho rằng Lê Đức Anh phản đối những cải cách kinh tế mà ông cho là quá liều lĩnh của ông Kiệt. Năm 1991, Lê Đức Anh ủng hộ Đỗ Mười ứng cử cương vị lãnh đạo đảng để phản đối Võ Văn Kiệt.[10] Cũng theo Bolton thì nhóm ủng hộ ông Kiệt sau đó đã lan truyền tin đồn về những hành vi xấu được cho là có liên quan đến Lê Đức Anh trong thời gian ông ở Campuchia.[10] Tuy nhiên, không rõ Bolton dựa vào căn cứ nào để đưa ra những kết luận này trong cuốn sách của mình.

Bản thân ông Võ Văn Kiệt thì nhận xét về ông Lê Đức Anh như sau:

"Ngần ấy thời gian biết anh Sáu Nam - Lê Đức Anh, có lúc cùng chiến trường, có lúc cùng ở cấp lãnh đạo đất nước, anh là một cán bộ tham mưu tầm cỡ, một vị chỉ huy cương nghị, bản lĩnh và dám chịu trách nhiệm, một Bộ trưởng Quốc phòng trong thời bình xây dựng có nhiều đổi mới trong tổ chức và bố trí lực lượng quân đội, lực lượng vũ trang nhân dân, một trong những người lãnh đạo quốc gia tầm cỡ trong thời kỳ đổi mới đất nước,... Công bằng mà đánh giá, không có nhiều tướng lĩnh như anh Lê Đức Anh..."[11]

Từ chức

Vào giữa tháng 11 năm 1996, Lê Đức Anh phải nhập viện sau một lần đột quỵ lớn.[12] Điều này xảy ra vào thời điểm nhóm cải cách mà ông phản đối đang suy tàn và trong một thời gian, bệnh của ông dường như thay đổi động lực trong giới lãnh đạo chính trị, làm khôi phục lại xu hướng cải cách.[10] Tuy nhiên, Tổng bí thư Đỗ Mười đã lãnh đạo một cuộc phản công chống lại xu hướng cải cách khi cảnh báo về những mặt trái của nền kinh tế thị trường đang ngày cảng nảy nở như tham nhũng, tệ nạn xã hội, suy thoái đạo đức... Điều này được tăng thêm động lực khi Lê Đức Anh bất ngờ hồi phục vào tháng 4 năm 1997.[10] Ông từ chức chủ tịch nước vào tháng 9 năm 1997 sau Đại hội Đảng Cộng sản thứ VIII và được Trần Đức Lương thay thế. Ông là Cố vấn của Trung ương Đảng từ tháng 12 năm 1997 - 2001.

Nghỉ hưu và qua đời

Từ tháng 9 năm 1997, ông từ chức vụ Chủ tịch nước, sau đó trở thành Cố vấn Trung ương Đảng. Đến tháng 4 năm 2001, ông chính thức nghỉ hưu.

Ông qua đời vào hồi 20 giờ 10 phút, ngày 22 tháng 4 năm 2019 tại nhà Công vụ, số 5A, phố Hoàng Diệu, Thành phố Hà Nội. Lễ tang của ông được Nhà nước Việt Nam tổ chức theo nghi thức Quốc tang, vào ngày 03 và 04 tháng 5 năm 2019. An táng tại nghĩa trang TP. Hồ Chí Minh.[13]

Lịch sử thụ phong quân hàm

Năm thụ phong 1958 1974 1980 1984
Quân hàm Tập tin:Vietnam People's Army Senior Colonel.jpg Tập tin:Vietnam People's Army Lieutenant General.jpg Tập tin:Vietnam People's Army Colonel General.jpg Tập tin:Vietnam People's Army General.jpg
Cấp bậc Đại tá Trung tướng

(phong vượt cấp)

Thượng tướng Đại tướng

Phong tặng

Đại tướng Lê Đức Anh được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Chiến công hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất,... Năm 2008, ông được Đảng Cộng sản Việt Nam tặng Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng. Năm 2013, ông được Đảng Cộng sản Việt Nam tặng Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng. Năm 2018, Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng được trao cho ông tại bệnh viện quân đội 108.[1][14]

Gia đình

Ông lập gia đình lần đầu với bà Phạm Thị Anh (tự Bảy Anh, sinh năm 1925, mất 2011).[15][16] Bà Phạm Thị Anh là con của một điền chủ nhỏ ở huyện Bến Cát, Bình Dương. Ông và bà có với nhau 2 người con. Người con gái đầu mất hai ngày sau khi sinh do sinh thiếu tháng và phải chạy giặc. Người con gái thứ 2 tên Lê Xuân Hồng sinh năm 1951 ở xã An Tây, huyện Bến Cát,[17] là Tiến sĩ tâm lý học, nguyên là Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Sư phạm mẫu giáo Trung ương 3 (nay là Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương Thành phố Hồ Chí Minh), nay đã nghỉ hưu.[khi nào?][15] Sau hiệp định Geneva 1954, ông tập kết ra Bắc còn bà vẫn ở lại miền Nam. Sau khi ra Bắc, trong cuộc "chỉnh huấn, chỉnh quân" do cố vấn Trung Quốc chỉ đạo, ông bị kiểm điểm do lấy vợ thuộc thành phần địa chủ tư sản và phải tuyên bố "ly khai với gia đình vợ". Ở miền Nam, bà Bảy Anh nhận được tin này nhưng không đi bước nữa. Từ đó đến khi bà Bảy Anh mất ông và bà chưa bao giờ gặp lại nhau[16]

Năm 1956, ông kết hôn với bà Võ Thị Lê (sinh năm 1928, tại xã Quế Phong, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam - mất ngày 18 tháng 11 năm 2016 tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Hà Nội).[18] Bà Lê là bác sĩ y khoa, công tác tại Bệnh viện Việt Xô Hà Nội. Bà Lê đã có một con gái với chồng trước tên là Huỳnh Thị Lệ Hạnh, sinh năm 1950, là kỹ sư thông tin, cán bộ hàng không, nay đã nghỉ hưu.[15] Ông Lê Đức Anh và bà Võ Thị Lê có với nhau 2 người con. Người con đầu là Lê Mạnh Hà (sinh năm 1957), nguyên là Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, người con gái thứ 2 ông cũng đặt tên là Lê Xuân Hồng, sinh năm 1959, Cử nhân kinh tế, nguyên là cán bộ ngành hải quan Thành phố Hồ Chí Minh, nay đã nghỉ hưu. Các con của ông đều là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.[15][16]

Câu nói

Tham khảo

  1. ^ a b c Trao tặng Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng cho đồng chí Lê Đức Anh, Báo điện tử Chính phủ
  2. ^ a b Hoàng Thùy - Viết Tuân (22 tháng 4 năm 2019). “Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh từ trần”. VnExpress. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.
  3. ^ Nghị quyết 782/ NQ/HĐNN7 năm 1987.
  4. ^ https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/dai-tuong-le-duc-anh-va-ke-hoach-giam-quan-so-quan-doi-525391.html
  5. ^ https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/dai-tuong-le-duc-anh-tran-tro-loi-the-o-truong-sa-209535.html
  6. ^ Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh từ trần Báo điện tử Chính phủ
  7. ^ a b Bolton 1999, 176
  8. ^ Bolton 1999, tr. 182
  9. ^ Bolton 1999, 182-83
  10. ^ a b c d Bolton 1999, 187
  11. ^ https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/dai-tuong-le-duc-anh-tran-tro-loi-the-o-truong-sa-209535.html
  12. ^ Mydans, Seth (20 tháng 12 năm 1996). “Domino Effect at the Top Is Looming for Vietnam”. The New York Times. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2010.
  13. ^ http://sggp.org.vn/thong-cao-dac-biet-ve-le-quoc-tang-nguyen-chu-tich-nuoc-le-duc-anh-589834.html
  14. ^ “Trao Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng cho Đại tướng Lê Đức Anh”. VOV. 29 tháng 7 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2017.
  15. ^ a b c d “ĐẠI TƯỚNG LÊ ĐỨC ANH – CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG (HỒI KÝ) (NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - HÀ NỘI 2015), Chương 11”. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. 12 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2017.
  16. ^ a b c Sách Bên Thắng Cuộc, Phần 2 Quyền Bính, Chương XVIII: Tam nhân phân quyền
  17. ^ Hoàng Hương (10 tháng 5 năm 2018). “Nữ tiến sĩ hai lần từ chối làm thứ trưởng”. Báo Tuổi trẻ. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2018.
  18. ^ “Phu nhân nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh từ trần”. Báo điện tử Thừa Thiên Huế. 20 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2017.
  19. ^ [https://archive.is/20130422000514/giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Dai-tuong-Le-Duc-Anh-Su-dung-bo-doi-de-cuong-che-la-tuyet-doi-sai/107323.gd

Thư mục

  • Bolton, Kent (1999): "Domestic Sources of Vietnam's Foreign Policy: Normalizing Relations with the United States". in Thayer, Carlyle A., Amer, Ramses (ed.): Vietnamese Foreign Policy in Transition. Institute of Southeast Asian Studies, Singapore
  • Thayer, Carlyle A. (1999): "Vietnamese Foreign Policy: Multilateralism and the Threat of Peaceful Evolution". in Thayer, Carlyle A., Amer, Ramses (1999): Vietnamese Foreign Policy in Transition. Institute of Southeast Asian Studies, Singapore
  • Wurfel, David (1999): "Between China and ASEAN: The Dialectics of Recent Vietnamese Foreign Policy". in Thayer, Carlyle A., Amer, Ramses (ed.): Vietnamese Foreign Policy in Transition. Institute of Southeast Asian Studies, Singapore

Liên kết ngoài