Lê Đức Anh
Bài viết này đang được sửa đổi liên tục vì chủ thể bài viết vừa mới qua đời. Thông tin về nguyên nhân qua đời và các sự kiện xung quanh nó có thể thay đổi nhanh chóng khi có thêm nhiều sự việc, thông tin mới được công bố. Các tin tức ban đầu có thể không đáng tin cậy, và các bản cập nhật cuối cùng của bài viết này có thể không phản ánh những thông tin mới nhất. |
Lê Đức Anh (Sáu Nam) | |
---|---|
Chức vụ | |
Nhiệm kỳ | 23 tháng 9 năm 1992 – 23 tháng 9 năm 1997 5 năm, 0 ngày |
Tiền nhiệm | Võ Chí Công |
Kế nhiệm | Trần Đức Lương |
Vị trí | Việt Nam |
Nhiệm kỳ | tháng 6 năm 1991 – tháng 9 năm 1992 |
Tiền nhiệm | Nguyễn Thanh Bình |
Kế nhiệm | Đào Duy Tùng |
Nhiệm kỳ | 16 tháng 2 năm 1987 – 10 tháng 8 năm 1991 4 năm, 175 ngày |
Tiền nhiệm | Văn Tiến Dũng |
Kế nhiệm | Đoàn Khuê |
Nhiệm kỳ | tháng 12 năm 1986 – 16 tháng 2 năm 1987 |
Tiền nhiệm | Lê Trọng Tấn |
Kế nhiệm | Đoàn Khuê |
Vị trí | Quân đội Nhân dân Việt Nam |
Ủy viên Bộ Chính trị | |
Nhiệm kỳ | 31 tháng 3 năm 1982 – 29 tháng 12 năm 1997 15 năm, 273 ngày |
Vị trí | Việt Nam |
Nhiệm kỳ | 1981 – 1986 |
Tư lệnh Quân khu 7 | |
Nhiệm kỳ | 1978 – 1981 |
Tiền nhiệm | Trần Văn Trà |
Kế nhiệm | Đồng Văn Cống |
Tư lệnh Quân khu 9 | |
Nhiệm kỳ | 1974 – 1975 |
Tiền nhiệm | Phạm Ngọc Hưng |
Kế nhiệm | Nguyễn Chánh |
Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam | |
Nhiệm kỳ | 1975 – 1976 |
Tư lệnh Quân khu 9 | |
Nhiệm kỳ | 1969 – 1973 |
Tiền nhiệm | Đồng Văn Cống |
Kế nhiệm | Phạm Ngọc Hưng |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | huyện Phú Vang, Thừa Thiên, Trung Kỳ, Liên bang Đông Dương | 1 tháng 12, 1920
Mất | 22 tháng 4, 2019 nhà Công vụ, số 5A, phố Hoàng Diệu, Thành phố Hà Nội. | (98 tuổi)
Dân tộc | Kinh |
Tôn giáo | Không |
Đảng chính trị | Đảng Cộng sản Việt Nam |
Vợ |
|
Con cái |
|
Chữ ký | |
Phục vụ trong quân đội | |
Thuộc | Quân đội nhân dân Việt Nam |
Năm tại ngũ | 1945–1992 |
Cấp bậc | |
Chỉ huy | Việt Minh Quân Giải phóng Miền Nam Quân đội nhân dân Việt Nam |
Tham chiến | |
Tặng thưởng |
|
Lê Đức Anh (1 tháng 12 năm 1920 - 22 tháng 4 năm 2019) là Chủ tịch nước thứ tư của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 1992–1997. Trước đó ông từng là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Đại tướng, từng là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam (1987–1991), Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (1986–1987).
Tiểu sử
Lê Đức Anh, sinh ngày 1 tháng 12 năm 1920 tại huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên – Huế, quê quán tại xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế.[1]
Ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 5/1938.[1]
Năm 1944, ông tổ chức và Phụ trách các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh. Khi Cách mạng Tháng Tám nổ ra, Lê Đức Anh tổ chức lực lượng gồm 300 người, trang bị vũ khí vừa thu được và giáo mác, tầm vông... kéo xuống thị xã Thủ Dầu Một tham gia tổng khởi nghĩa.
Tháng 8 năm 1945, ông tham gia quân đội, giữ các chức vụ từ Trung đội trưởng đến Chính trị viên Tiểu đoàn, chi đội 1 và Trung đoàn 301. Từ tháng 10 năm 1948 đến năm 1950, ông là tham mưu trưởng các Quân khu 7, Quân khu 8 và đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Từ năm 1951 đến 1954, giữ chức tham mưu phó, quyền tham mưu trưởng bộ tư lệnh Nam Bộ.[2]
Sau Hiệp định Genève, ông tập kết ra Bắc. Tháng 5 năm 1955, ông được cử giữ chức Cục phó Cục Tác chiến, rồi Cục trưởng Cục Quân lực Bộ Tổng Tham mưu; hàm Đại tá (1958). Từ tháng 8 năm 1963, ông giữ chức Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Tháng 2 năm 1964, ông được điều vào Nam với bí danh Sáu Nam, giữ chức Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Miền Nam. Năm 1969, được điều về làm Tư lệnh Quân khu 9.
Cuối năm 1974, ông được điều trở lại chức Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam và được phong vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng. Trong 11 năm tham gia đánh Mỹ, ông đã trực tiếp chỉ huy 4 trận đánh lớn:
- Mùa khô năm 1966 - 1967, tướng Lê Đức Anh trực tiếp chỉ đạo đánh bại Chiến dịch Junction City của quân đội Mỹ và các nước chư hầu.
- Năm 1973, ông chỉ huy việc phá âm mưu bình địa, tràn ngập lãnh thổ sau khi có Hiệp định Paris của quân đội Sài Gòn ở địa bàn quân khu 9.
- Năm 1974, ông chỉ huy chiến dịch Đường 14 - Phước Long, giải phóng tỉnh Phước Long và thăm dò khả năng phản công của quân đội Sài Gòn.
- Năm 1975, ông được cử giữ chức Phó Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh, kiêm Tư lệnh cánh quân Tây Nam đánh vào Sài Gòn.
Từ tháng 5 năm 1976, ông là Tư lệnh Quân khu 9. Đến tháng 6 năm 1978, là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, chỉ huy trưởng cơ quan tiền phương Bộ Quốc phòng ở mặt trận Tây-Nam; được phong Thượng tướng năm 1980. Năm 1981, khi đang giữ chức Tư lệnh Quân khu 7, ông được phân công kiêm chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, Phó trưởng ban, rồi Trưởng ban lãnh đạo chuyên gia Việt Nam tại Campuchia. Năm 1984, ông được phong hàm Đại tướng.
Tháng 12 năm 1986, ông được cử giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Từ ngày 16 tháng 2 năm 1987[3] đến 10 tháng 8 năm 1991, ông là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, phó bí thư thứ nhất Đảng ủy Quân sự Trung ương. Khi Bộ Chính trị họp đã thông qua kế hoạch điều chỉnh chiến lược và giảm quân số quân đội của ông, từ 1,5 triệu quân thường trực xuống còn 45 vạn (từ 9 quân đoàn giảm xuống còn 4 quân đoàn), gánh nặng ngân sách quốc phòng được giải tỏa[4].
Năm 1988, trong chuyến thị sát tại quần đảo Trường Sa, Lê Đức Anh trên cương vị Bộ trưởng Quốc phòng đã dự lễ kỷ niệm 33 năm ngày truyền thống của Quân chủng Hải quân Việt Nam (7/5/1955-7/5/1988). Chuyến thăm diễn ra ngay sau khi Trung Quốc nổ súng vào tàu vận tải của Việt Nam tại đảo Gạc Ma rạng sáng 14/3 làm 64 chiến sĩ trên tàu HQ-604 hy sinh. Ông phát biểu: "...chúng ta xin thề trước hương hồn của tổ tiên ta, trước hương hồn của cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa với đồng bào cả nước, xin nhắn nhủ với các thế hệ mai sau "Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa - một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu của chúng ta"[5].
Năm 1991 là Thường trực Bộ chính trị. Năm 1992, ông được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam bầu vào chức vụ Chủ tịch nước. Ông cũng là Ủy viên BCH TƯ khóa IV-VIII, Ủy viên Bộ Chính trị khóa V-VIII, Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII; đại biểu Quốc hội khóa VI, VIII, IX.
Ông là một trong số ít những cán bộ quân đội đã trải qua cả 4 chiến trường trong suốt 40 năm: Tham gia 9 năm kháng chiến chống Pháp, tham gia chỉ huy tại chiến trường miền Nam chống Mỹ trong 11 năm (1964-1975), chỉ huy chiến trường Campuchia trong 7 năm (1979-1986), tham gia chỉ huy chiến trường biên giới phía Bắc trong 3 năm (1986-1989).
Ngày 22 tháng 4 năm 2019, vì tuổi đã cao, sức yếu, ông qua đời ở tuổi 98, hưởng thọ tuổi 99 tại nhà Công vụ, Hoàng Diệu, Hà Nội.[6][2]
Chủ tịch nước
Vào ngày 23 tháng 9 năm 1992, ông là người kế nhiệm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công và do đó là Chủ tịch nước Việt Nam. Mặc dù vị trí này (theo phương Tây) chủ yếu mang tính biểu tượng, chức Chủ tịch nước trở nên quan trọng hơn nhiều trong nhiệm kỳ của ông.[7] Ông giữ chức danh này cho đến khi được Trần Đức Lương thay thế vào ngày 24 tháng 9 năm 1997.
Tướng Lê Đức Anh đã được ghi công với một số giải thưởng, bao gồm Huân chương Sao Vàng và Huân chương Hồ Chí Minh.
Trong cuốn sách của mình, tác giả Bolton cho rằng Lê Đức Anh được nhiều người coi là (về mặt tư tưởng) là người bảo thủ nhất trong số ba nhà lãnh đạo chính trị trong nhiệm kỳ của mình.[7] Thủ tướng Võ Văn Kiệt được cho là ủng hộ cải cách[8] và do đó thường không đồng ý với Lê Đức Anh. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười thì linh hoạt hơn về mặt tư tưởng và được coi là đại diện cho sự trung dung giữa Anh và Kiệt, nhưng dường như có xu hướng bảo thủ.[9] Bolton cho rằng Lê Đức Anh phản đối những cải cách kinh tế mà ông cho là quá liều lĩnh của ông Kiệt. Năm 1991, Lê Đức Anh ủng hộ Đỗ Mười ứng cử cương vị lãnh đạo đảng để phản đối Võ Văn Kiệt.[10] Cũng theo Bolton thì nhóm ủng hộ ông Kiệt sau đó đã lan truyền tin đồn về những hành vi xấu được cho là có liên quan đến Lê Đức Anh trong thời gian ông ở Campuchia.[10] Tuy nhiên, không rõ Bolton dựa vào căn cứ nào để đưa ra những kết luận này trong cuốn sách của mình.
Bản thân ông Võ Văn Kiệt thì nhận xét về ông Lê Đức Anh như sau:
- "Ngần ấy thời gian biết anh Sáu Nam - Lê Đức Anh, có lúc cùng chiến trường, có lúc cùng ở cấp lãnh đạo đất nước, anh là một cán bộ tham mưu tầm cỡ, một vị chỉ huy cương nghị, bản lĩnh và dám chịu trách nhiệm, một Bộ trưởng Quốc phòng trong thời bình xây dựng có nhiều đổi mới trong tổ chức và bố trí lực lượng quân đội, lực lượng vũ trang nhân dân, một trong những người lãnh đạo quốc gia tầm cỡ trong thời kỳ đổi mới đất nước,... Công bằng mà đánh giá, không có nhiều tướng lĩnh như anh Lê Đức Anh..."[11]
Từ chức
Vào giữa tháng 11 năm 1996, Lê Đức Anh phải nhập viện sau một lần đột quỵ lớn.[12] Điều này xảy ra vào thời điểm nhóm cải cách mà ông phản đối đang suy tàn và trong một thời gian, bệnh của ông dường như thay đổi động lực trong giới lãnh đạo chính trị, làm khôi phục lại xu hướng cải cách.[10] Tuy nhiên, Tổng bí thư Đỗ Mười đã lãnh đạo một cuộc phản công chống lại xu hướng cải cách khi cảnh báo về những mặt trái của nền kinh tế thị trường đang ngày cảng nảy nở như tham nhũng, tệ nạn xã hội, suy thoái đạo đức... Điều này được tăng thêm động lực khi Lê Đức Anh bất ngờ hồi phục vào tháng 4 năm 1997.[10] Ông từ chức chủ tịch nước vào tháng 9 năm 1997 sau Đại hội Đảng Cộng sản thứ VIII và được Trần Đức Lương thay thế. Ông là Cố vấn của Trung ương Đảng từ tháng 12 năm 1997 - 2001.
Nghỉ hưu và qua đời
Từ tháng 9 năm 1997, ông từ chức vụ Chủ tịch nước, sau đó trở thành Cố vấn Trung ương Đảng. Đến tháng 4 năm 2001, ông chính thức nghỉ hưu.
Ông qua đời vào hồi 20 giờ 10 phút, ngày 22 tháng 4 năm 2019 tại nhà Công vụ, số 5A, phố Hoàng Diệu, Thành phố Hà Nội. Lễ tang của ông được Nhà nước Việt Nam tổ chức theo nghi thức Quốc tang, vào ngày 03 và 04 tháng 5 năm 2019. An táng tại nghĩa trang TP. Hồ Chí Minh.[13]
Lịch sử thụ phong quân hàm
Năm thụ phong | 1958 | 1974 | 1980 | 1984 | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Quân hàm | Tập tin:Vietnam People's Army Senior Colonel.jpg | Tập tin:Vietnam People's Army Lieutenant General.jpg | Tập tin:Vietnam People's Army Colonel General.jpg | Tập tin:Vietnam People's Army General.jpg | ||||||
Cấp bậc | Đại tá | Trung tướng
(phong vượt cấp) |
Thượng tướng | Đại tướng | ||||||
Phong tặng
Đại tướng Lê Đức Anh được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Chiến công hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất,... Năm 2008, ông được Đảng Cộng sản Việt Nam tặng Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng. Năm 2013, ông được Đảng Cộng sản Việt Nam tặng Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng. Năm 2018, Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng được trao cho ông tại bệnh viện quân đội 108.[1][14]
Gia đình
Ông lập gia đình lần đầu với bà Phạm Thị Anh (tự Bảy Anh, sinh năm 1925, mất 2011).[15][16] Bà Phạm Thị Anh là con của một điền chủ nhỏ ở huyện Bến Cát, Bình Dương. Ông và bà có với nhau 2 người con. Người con gái đầu mất hai ngày sau khi sinh do sinh thiếu tháng và phải chạy giặc. Người con gái thứ 2 tên Lê Xuân Hồng sinh năm 1951 ở xã An Tây, huyện Bến Cát,[17] là Tiến sĩ tâm lý học, nguyên là Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Sư phạm mẫu giáo Trung ương 3 (nay là Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương Thành phố Hồ Chí Minh), nay đã nghỉ hưu.[khi nào?][15] Sau hiệp định Geneva 1954, ông tập kết ra Bắc còn bà vẫn ở lại miền Nam. Sau khi ra Bắc, trong cuộc "chỉnh huấn, chỉnh quân" do cố vấn Trung Quốc chỉ đạo, ông bị kiểm điểm do lấy vợ thuộc thành phần địa chủ tư sản và phải tuyên bố "ly khai với gia đình vợ". Ở miền Nam, bà Bảy Anh nhận được tin này nhưng không đi bước nữa. Từ đó đến khi bà Bảy Anh mất ông và bà chưa bao giờ gặp lại nhau[16]
Năm 1956, ông kết hôn với bà Võ Thị Lê (sinh năm 1928, tại xã Quế Phong, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam - mất ngày 18 tháng 11 năm 2016 tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Hà Nội).[18] Bà Lê là bác sĩ y khoa, công tác tại Bệnh viện Việt Xô Hà Nội. Bà Lê đã có một con gái với chồng trước tên là Huỳnh Thị Lệ Hạnh, sinh năm 1950, là kỹ sư thông tin, cán bộ hàng không, nay đã nghỉ hưu.[15] Ông Lê Đức Anh và bà Võ Thị Lê có với nhau 2 người con. Người con đầu là Lê Mạnh Hà (sinh năm 1957), nguyên là Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, người con gái thứ 2 ông cũng đặt tên là Lê Xuân Hồng, sinh năm 1959, Cử nhân kinh tế, nguyên là cán bộ ngành hải quan Thành phố Hồ Chí Minh, nay đã nghỉ hưu. Các con của ông đều là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.[15][16]
Câu nói
“ | Sử dụng cả hàng chục công an, bộ đội đến cưỡng chế với một gia đình làm ăn tử tế thì tôi thấy rất băn khoăn. Đây là một chuyện rất hiếm, tôi chưa nghe thấy chuyện này bao giờ. Nếu nơi nào mà làm việc đó thì tôi phản đối, sử dụng bộ đội để cưỡng chế với dân là tuyệt đối sai. | ” |
— Trả lời phỏng vấn báo Giáo dục Việt Nam về vụ cưỡng chế đất ở Tiên Lãng[19] |
Tham khảo
- ^ a b c Trao tặng Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng cho đồng chí Lê Đức Anh, Báo điện tử Chính phủ
- ^ a b Hoàng Thùy - Viết Tuân (22 tháng 4 năm 2019). “Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh từ trần”. VnExpress. Truy cập 23 tháng 4 năm 2019.
- ^ Nghị quyết 782/ NQ/HĐNN7 năm 1987.
- ^ https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/dai-tuong-le-duc-anh-va-ke-hoach-giam-quan-so-quan-doi-525391.html
- ^ https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/dai-tuong-le-duc-anh-tran-tro-loi-the-o-truong-sa-209535.html
- ^ Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh từ trần Báo điện tử Chính phủ
- ^ a b Bolton 1999, 176
- ^ Bolton 1999, tr. 182
- ^ Bolton 1999, 182-83
- ^ a b c d Bolton 1999, 187
- ^ https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/dai-tuong-le-duc-anh-tran-tro-loi-the-o-truong-sa-209535.html
- ^ Mydans, Seth (20 tháng 12 năm 1996). “Domino Effect at the Top Is Looming for Vietnam”. The New York Times. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2010.
- ^ http://sggp.org.vn/thong-cao-dac-biet-ve-le-quoc-tang-nguyen-chu-tich-nuoc-le-duc-anh-589834.html
- ^ “Trao Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng cho Đại tướng Lê Đức Anh”. VOV. 29 tháng 7 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2017.
- ^ a b c d “ĐẠI TƯỚNG LÊ ĐỨC ANH – CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG (HỒI KÝ) (NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - HÀ NỘI 2015), Chương 11”. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. 12 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2017.
- ^ a b c Sách Bên Thắng Cuộc, Phần 2 Quyền Bính, Chương XVIII: Tam nhân phân quyền
- ^ Hoàng Hương (10 tháng 5 năm 2018). “Nữ tiến sĩ hai lần từ chối làm thứ trưởng”. Báo Tuổi trẻ. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2018.
- ^ “Phu nhân nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh từ trần”. Báo điện tử Thừa Thiên Huế. 20 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2017.
- ^ [https://archive.is/20130422000514/giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Dai-tuong-Le-Duc-Anh-Su-dung-bo-doi-de-cuong-che-la-tuyet-doi-sai/107323.gd
Thư mục
- Bolton, Kent (1999): "Domestic Sources of Vietnam's Foreign Policy: Normalizing Relations with the United States". in Thayer, Carlyle A., Amer, Ramses (ed.): Vietnamese Foreign Policy in Transition. Institute of Southeast Asian Studies, Singapore
- Thayer, Carlyle A. (1999): "Vietnamese Foreign Policy: Multilateralism and the Threat of Peaceful Evolution". in Thayer, Carlyle A., Amer, Ramses (1999): Vietnamese Foreign Policy in Transition. Institute of Southeast Asian Studies, Singapore
- Wurfel, David (1999): "Between China and ASEAN: The Dialectics of Recent Vietnamese Foreign Policy". in Thayer, Carlyle A., Amer, Ramses (ed.): Vietnamese Foreign Policy in Transition. Institute of Southeast Asian Studies, Singapore
Liên kết ngoài
- Tóm tắt tiểu sử đồng chí Lê Đức Anh Văn phòng Chủ tịch nước 06/01/2013 17:11 CH
- Đại tướng Lê Đức Anh: "Sử dụng bộ đội để cưỡng chế là tuyệt đối sai" Ngọc Quang, Báo Giáo dục Việt Nam 09/02/2012 06:29
- Đại tướng Lê Đức Anh: "Phải xử lý nghiêm cán bộ làm sai vụ cưỡng chế" Ngọc Quang, Báo Giáo dục Việt Nam 02/02/2012 07:00
- Đại tướng Lê Đức Anh:"Xử lý không nghiêm, hậu quả sẽ rất nghiêm trọng" Ngọc Quang, Báo Giáo dục Việt Nam 11/02/2012 19:06
- Sơ khai nhân vật quân sự Việt Nam
- Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam
- Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam
- Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam
- Sinh năm 1920
- Mất năm 2019
- Người Thừa Thiên - Huế
- Chủ tịch nước Việt Nam
- Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
- Ủy viên Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
- Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VI
- Huân chương Sao Vàng
- Huân chương Hồ Chí Minh
- Huân chương Quân công
- Huân chương Chiến thắng
- Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng Cộng sản Việt Nam
- Nhân vật trong chiến tranh Việt Nam
- Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VIII
- Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa IX
- Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam đã nghỉ hưu
- Tư lệnh Quân khu 9, Quân đội nhân dân Việt Nam
- Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam