Bước tới nội dung

Cao Phong Nguyên Diệu

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thiền sư
cao phong nguyên diệu
高峰原妙
Hoạt động tôn giáo
Tôn giáoPhật giáo
Trường pháiĐại thừa
Tông pháiThiền tông
Lưu pháiLâm Tế
Chi pháiDương Kỳ
DòngHổ Khâu
Môn pháiPhá Am
Sư phụTuyết Nham Tổ Khâm
Đệ tửTrung Phong Minh Bản
Thông tin cá nhân
Sinh
Ngày sinh23 tháng 3, Gia Hy 2
(1238)
Quê quánNgô Giang
Mất1 tháng 12, Nguyên Trinh 1
(1295)
Giới tínhnam
Quốc giaTống
Quốc tịchnhà Nguyên
icon Cổng thông tin Phật giáo

Cao Phong Nguyên Diệu (chữ Hán: 高峰原妙, ja. Kōhō Genmyō; 1238-1295), còn được tôn xưng là Cao Phong Diệu Tổ (高峰妙祖), là một thiền sư Trung Quốc thời Nam Tống.

Hành trạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Sư nguyên họ Từ (徐), tự là Cao Phong (高峰), sinh ngày 23 tháng 3 (âm lịch) năm Mậu Tuất 1238, nhằm niên hiệu Gia Hy thứ 2, đời vua Tống Lý Tông triều Nam Tống, nguyên quán huyện Ngô Giang, phủ Tô Châu (thuộc tỉnh Giang Tô ngày nay).

Năm 15 tuổi, sư phát tâm xuất gia, đến năm 17 tuổi thọ Cụ túc, khi tròn 18 tuổi theo học với Đại sư Pháp Trụ ở chùa Mật Ấn về giáo pháp Thiên Thai và ngộ được ý chỉ. Sau, Sư chuyên tâm tham mộ thiền pháp nên đã đến cầu đạo với Thiền sư Đoạn Kiều Diệu Luân, tuy nhiên chưa tìm được sở đắc.

Sư đến pháp hội của Tổ sư Tuyết Nham Tổ Khâm để nhập chúng tu thiền. Biết Sư là bậc Long tượng sẽ phát dương quang đại cho thiền lâm sau này, nên Tổ sư đặc biệt chú ý giáo hoá. Mấy lần, Sư vừa mở miệng chưa kịp tham vấn đã bị Tổ sư Tuyết Nham đánh một gậy rồi đuổi ra, nhân khi đọc được bài "Chơn tán" của Tổ sư đời thứ 10 Tông Lâm Tế là Pháp Diễn, Sư lãnh ngộ được yếu chỉ của việc bị đánh một gậy trên nên càng chú tâm hầu cận với Tổ sư Tuyết Nham.

Một hôm, Tổ sư hỏi: "Đất trời bao la, ông có thể làm chủ được không ?"

Sư thưa: "Dạ được ! ".

Tổ sư lại hỏi: "Lúc nằm mộng, ông làm chủ được không ?"

Sư thưa: "Dạ được ! ".

Tổ sư hỏi tiếp: "Vậy chính ngay lúc ngủ say, không mộng, không tưởng, không thấy, không nghe thì chủ nhân ông ở chỗ nào ?"

Sư không đáp được, liền xin vào núi Long Tu quán xét suốt 5 năm. Đến năm Kỷ Tỵ (1269), nhân hôm nọ, người bạn đồng tu bên cạnh làm rơi chiếc gối xuống đất, Sư chợt nghe thấy tiếng động này liền bỗng nhiên triệt ngộ và liền nói kệ:

Chốn cũ người xưa vẫn còn đây

Nào hay diện mục chẳng đổi thay.

Sau đó, sư đến gặp thiền sư Tổ Khâm trình kiến giải và được thầy ấn chứng là sư đã triệt ngộ. Từ đó, sư nối pháp của thiền sư Tuyết Nham Tổ Khâm, trở thành truyền nhân đời thứ 18 của Tông Lâm Tế, phái Hổ Khâu.

Năm Kỷ Mão (1279) nhằm niên hiệu thứ 2, đời Tống đế Bính triều Nam Tống, Sư dựng một thảo am nhỏ ở hang Sư Tử trên núi Thiên Mục và đề hiệu là "Tử Quan", trong 15 năm không hề bước chân ra khỏi cửa. Thiền phong Sư vang khắp chốn, đồ chúng tìm đến tham học ngày càng đông.

Vào ngày mồng 1 tháng 12(âl) năm Ất Mùi 1295, nhằm niên hiệu Nguyên Trinh năm đầu, đời vua Nguyên Thành Tông, Sư thâu thần thị tịch, trụ thế 58 tuổi. Môn đồ lập tháp thờ Sư ở Tử Quan tại núi Thiên Mục.

Vua ban thụy hiệu cho Sư là Phổ Minh Quảng Tế Thiền sư.

Đệ tử nối pháp có Thiền sư Trung Phong Minh Bản.

Tác phẩm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Cao Phong Diệu thiền sư ngữ lục.
  • Cao Phong Hòa thượng thiền yếu.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
  • Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
  • Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
  • Như Sơn, Thiền Uyển Kế Đăng Lục, Thích Thiện Phước dịch 2015.