Gloria Gaynor
Gloria Gaynor | |
---|---|
Gaynor in 1976 | |
Thông tin nghệ sĩ | |
Tên khai sinh | Gloria Fowles |
Sinh | 7 tháng 9, 1943 Newark, New Jersey, Hoa Kỳ |
Thể loại | |
Nghề nghiệp |
|
Nhạc cụ | Vocals |
Năm hoạt động | 1965–nay |
Hãng đĩa | MGM (1965–76) Polydor (1976–83) Chrysalis (1984–85) Stylus Records (1986–88) Hot Productions (1996–97) Logic Records (2000–04) Radikal Records (2005–nay) |
Hợp tác với | Soul Satisfiers, Marvin Gaye, Luther Vandross |
Website | www |
Gloria Gaynor (sinh ngày 7 tháng 9 năm 1943) [1][2][3][4][5][6][7][8][9][10] là một ca sĩ người Mỹ, nổi tiếng với các bản hit thời kỳ nhạc disco như "I Will Survive" (số 1 của Hot 100 1979), "Never Can Say Goodbye" (số 9 của Hot 100, 1974), "Let Me Know (I Have a Right)" (Hot 100 số 42, 1980) và "I Am What I Am" (R & B số 82, 1983).
Tuổi thơ
[sửa | sửa mã nguồn]Gaynor được sinh ra với tên là Gloria Fowles ở Newark, New Jersey,[9] với cha là Daniel Fowles và mẹ là Queenie Mae Proctor. Bà của cô sống gần đó và có ảnh hưởng đến giáo dục của cô.[11] "Luôn có âm nhạc trong nhà của chúng tôi", Gaynor viết trong cuốn tự truyện của mình, I Will Survive. Cô thích nghe radio, và thu âm bởi Nat King Cole và Sarah Vaughan. Cha cô chơi ukulele và guitar và hát chuyên nghiệp trong các hộp đêm với một nhóm có tên Step 'n' Fetchit. Gloria lớn lên thành một cô nàng tomboy: cô có năm anh em, nhưng không có em gái. Các anh trai của cô hát nhạc phúc âm và thành lập một bộ tứ với một người bạn.
Gaynor không được phép hát với nhóm toàn nam, và em trai của cô Arthur cũng không được tham gia nhóm, vì Gloria là một cô gái và Arthur còn quá trẻ. Arthur sau đó đóng vai trò là người quản lý tour cho Gaynor. Gia đình tương đối nghèo, nhưng Gaynor nhớ lại ngôi nhà tràn ngập tiếng cười và hạnh phúc, và bàn ăn luôn sẵn sàng cho bạn bè hàng xóm tham gia. Họ chuyển đến một dự án nhà ở vào năm 1960, nơi Gaynor đã đến trường trung học South Side. "Trong suốt tuổi trẻ, tôi muốn hát, mặc dù không ai trong gia đình tôi biết điều đó", Gaynor viết trong cuốn tự truyện. Gaynor bắt đầu hát trong một câu lạc bộ đêm ở Newark, nơi cô được một người hàng xóm giới thiệu cho một ban nhạc địa phương. Sau vài năm biểu diễn trong các câu lạc bộ địa phương và dọc theo bờ biển phía đông, Gaynor bắt đầu sự nghiệp ghi âm của mình vào năm 1971 tại Columbia Records.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “Newark Public Schools Historical Preservation Committee” (PDF).
- ^ Betts, Stephen L. (June 14, 2019) "Gloria Gaynor Preaches Survival on Inspiring New Gospel Album" Rolling Stone. Retrieved 12 March 2020.
- ^ Maye, Warren L. (2019). "You Will Survive" Lưu trữ 2021-06-25 tại Wayback Machine. SAConnects. Retrieved 24 March 2020.
- ^ Hoffmann, Frank (2005). Rhythm and Blues, Rap, and Hip-Hop. New York: Infobase Publishing. tr. 104. ISBN 9780816069804.
- ^ Sullivan, Steve (2013). “I Will Survive (1979)—Gloria Gaynor”. Encyclopedia of Great Popular Song Recordings. 1. Lanham, MD: Scarecrow Press. tr. 712. ISBN 9780810882966.
- ^ Hoffmann, Frank (2016). Chronology of American Popular Music, 1900-2000. New York: Routledge. tr. 349. ISBN 9781135868864.
- ^ Bronson, Fred (2003). The Billboard Book of Number One Hits. New York: Billboard Books. tr. 498. ISBN 9780823076772.
- ^ Larkin, Colin (2011). “Gaynor, Gloria”. The Encyclopedia of Popular Music (ấn bản thứ 5). London: Omnibus Press. ISBN 9780857125958.
- ^ a b Rosenfeld, Stacey (ngày 16 tháng 3 năm 2012). “Gaynor recalls how she 'survived' her lifestyle”. Cliffside Park Citizen. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2019.
- ^ Rohan, Virginia (ngày 29 tháng 4 năm 2008). “'I Will Survive' singer brings anthem to Newark benefit”. The Record. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2019.
- ^ Blanz, Sharla (19 tháng 12 năm 2007). “"I Will Survive" singer Gloria Gaynor graduated from Southside High School in Newark”. Njmonthly.com 1961. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2012.