Inocybe geophylla
Inocybe geophylla, là một loại nấm độc thuộc chi Inocybe. Nó phổ biến và phổ biến ở châu Âu và Bắc Mỹ, sống trên cây lá kim và cây rụng lá vào mùa hè và mùa thu. Nấm có thân màu trắng với nắp ấm cấu tạo dạng sợi. Biến thể màu hoa cà cũng khá là phổ biến.
Phân loại và đặt tên
[sửa | sửa mã nguồn]Loài nấm này được nhà tự nhiên học người Anh James Sowerby mô tả lần đầu tiên vào năm 1799 mang tên Agaricus geophyllus trong tác phẩm Coloured Figures of English Fungi or Mushrooms.[1] Năm 1801, Christiaan Hendrik Persoon đặt tên là Agaricus geophilus trong tác phẩm Synopsis methodica fungorum.[2] Danh pháp của nấm có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ đại geo- "đất", và phyllon-"lá".[3] Loài nấm này được đặt tên theo danh pháp hai phần vào năm 1871 bởi Paul Kummer.[4]
Một biến thể có màu hoa cà mang tên var. lilacina; ban đầu nó nhà nấm học người Mỹ Charles Horton Peck được mô tả là loài Agaricus geophyllus var. lilacinus năm 1872. Ông phát hiện ra loài này ở Bethlehem, New York.[5] Claude Casimir Gillet đặt tên loài năm 1876 và danh pháp này được sử dụng phổ biến ngày nay. Năm 1918, Calvin Henry Kauffman phân loại, xếp loại nấm này thành một loài riêng biệt.[6] Một nghiên cứu di truyền nhân tế bào thực hiện năm 2005 phát hiện ra rằng I. geophylla có liên quan chặt chẽ với I. fuscodisca, trong khi I. lilacina chung một dòng với I. agglutinata và I. pudica.[7]
Sự miêu tả
[sửa | sửa mã nguồn]Đường kính mũ nấm khoảng 1 cm (0,4 đến 2.6 inch, có màu trắng hoặc màu kem, kết cấu sợi, có hình nón. Viền mũ nấm tách ra theo tuổi.[8] Nó có một chỗ phình nhỏ ở gốc nấm,[9] mọc không thẳng đứng.[10] Các túi bào tử có màu kem, khi bào tử đang phát triển thì nó chuyển sang màu nâu. Các bào tử hình hạnh nhân mịn màng, có kích thước khoảng 9 × 5 μm. Nấm có mùi như thức ăn,[8] mùi đất ẩm,[3] hoặc thậm chí giống mùi tinh trùng.[11]
Nấm trưởng thành có thể bị nhầm lẫn với các loài thuộc chi Tricholoma hoặc loài Calocybe gambosa ăn được.[10] Ở Israel, người ta nhầm lẫn với nấm ăn được thuộc chi Tricholoma, đặc biệt là hai loài nấm Tricholoma terreum và Suillus granulatus, chúng đều phát triển trong môi trường sống tương tự.[12] Ở Bắc Mỹ, nấm trưởng thành giống như các loài nấm thuộc chi Camarophyllus.[11]
Phân bố và sinh cảnh
[sửa | sửa mã nguồn]Inocybe geophylla phổ biến trên khắp châu Âu và Bắc Mỹ.[8][11] Ở phía tây Bắc Mỹ, nó được tìm thấy dưới cây sồi, thông và linh sam Douglas.[11] Cả hai giống được tìm thấy ở các vùng Bắc Cực, ở miền bắc Manitoba và Tây Bắc Territories, Canada, dưới tán cây Betula Glandulosa, Salix arctica, S. herbacea, S. Polaris, Salix reticulata,Vaccinium uliginosum var. alpinum,V. Vitis-idaea var. minus, Arctous Alpina, Persicaria vivipara, Cassiope tetragona, Dryas integrifolia) và var. lilacina trong vùng lãnh nguyên rêu ẩm ướt.[13] Loài này cộng sinh với các cây trong rừng cây rụng lá và lá kim vào mùa hè và mùa thu.
Ở Israel, I. geophylla mọc dưới cây sồi Palestine (Quercus calliprinos) và dưới cây thông, nấm vẫn xuất hiện trong mùa khô, vốn ít hoặc không có mưa vì loài này cộng sinh trên cây.[12]
Độc tính
[sửa | sửa mã nguồn]Giống như nhiều fibrecaps, Inocybe geophylla có chứa muscarine.[14] Các triệu chứng ngộ độc muscarine, bao gồm tăng tiết nước bọt, đổ mồ hôi và chảy nước mắt trong vòng 15 đến 30 phút sau khi ăn phải. Ăn nhiều nấm dã gây đau bụng, buồn nôn nghiêm trọng, tiêu chảy, mờ mắt và khó thở. Nhiễm độc có thể giảm trong vòng hai giờ.[15] Không xảy ra mê sảng. Các thuốc giải độc đặc hiệu là atropine. Không gây chết người.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Sowerby, James (1799). Coloured Figures of English Fungi. 2. London, United Kingdom: J. Davis. tr. 2, plate 124.
- ^ Persoon, Christiaan Hendrik (1801). Synopsis Methodica Fungorum (bằng tiếng La-tinh). Göttingen, Sweden: H. Dietrich. tr. 340. OCLC 28329773.[liên kết hỏng]
- ^ a b Nilson, Sven; Persson, Olle (1977). Fungi of Northern Europe 2: Gill-Fungi. Penguin. tr. 98. ISBN 0-14-063006-6.
- ^ Kummer, Paul (1871). Der Führer in die Pilzkunde (bằng tiếng Đức). Zerbst: C. Luppe. tr. 78.
- ^ Peck, Charles Horton (1872). “Report of the botanist”. Annual report on the New York State Museum of Natural History. 26: 35–92 [90].
- ^ Kauffman, Calvin Henry (1918). The Agaricaceae of Michigan. Michigan Geological and Biological Survey. Lansing, Michigan: W.H. Crawford, state printers. tr. 466.
- ^ Matheny, P. Brandon (2005). “Improving phylogenetic inference of mushrooms with RPB1 and RPB2 nucleotide sequences (Inocybe; Agaricales)”. Molecular Phylogenetics and Evolution. 35 (1): 1–20. doi:10.1016/j.ympev.2004.11.014.
- ^ a b c Phillips, Roger (1981). Mushrooms and Other Fungi of Great Britain and Europe. London: Pan Books. tr. 220. ISBN 0-330-26441-9.
- ^ Lamaison, Jean-Louis; Polese, Jean-Marie (2005). The Great Encyclopedia of Mushrooms. Könemann. tr. 83, 137. ISBN 3-8331-1239-5.
- ^ a b Haas, Hans (1969). The Young Specialist looks at Fungi. Burke. tr. 122. ISBN 0-222-79409-7.
- ^ a b c d Arora, David (1986). Mushrooms Demystified. Ten Speed Press. tr. 460. ISBN 0-89815-169-4.
- ^ a b Lurie, Yael (2009). “Mushroom poisoning from species of genus Inocybe (fiber head”. Clinical Toxicology. 47 (6): 562–65. doi:10.1080/15563650903008448.
- ^ Ohenoja, Esteri; Ohenoja, Martti. “Larger fungi of the Canadian Arctic”. North American Fungi. 5 (5): 85–96. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2019.
- ^ Benjamin, Denis R. (1995). Mushrooms: poisons and panaceas – a handbook for naturalists, mycologists and physicians. New York: WH Freeman and Company. tr. 343. ISBN 0-7167-2600-9.
- ^ North, Pamela (1967). Poisonous Plants and Fungi in colour. Blandford Press & Pharmacological Society of Great Britain. tr. 111.