Bước tới nội dung

Kristen Stewart

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Kristen Stewart
Kristen Stewart tại Liên hoan phim Quốc tế Toronto 2019
SinhKristen Jaymes Stewart
9 tháng 4, 1990 (34 tuổi)
Los Angeles, California, Mỹ
Quốc tịch Hoa Kỳ
Học vịĐại học California, Los Angeles
Nghề nghiệp
Năm hoạt động1999–nay
Chiều cao1,65 m (5 ft 5 in)
Cha mẹ
  • John Stewart
  • Jules Mann
Người thânCameron Stewart
Taylor Stewart
Dana Stewart (anh trai)
Giải thưởng[1]
WebsiteTrang chủ chính thức

Kristen Stewart (sinh ngày 9 tháng 4 năm 1990)[1] là một nữ diễn viên, người mẫu và nhà làm phim người Mỹ. Kristen bắt đầu đóng phim từ năm cô 8 tuổi. Cô nổi tiếng nhất với vai chính Bella Swan trong loạt phim điện ảnh ăn khách The Twilight Saga. Cô cũng từng tham gia trong các phim như Panic Room (2002), Speak (2004), Into the Wild (2007), The Messengers (2007), Adventure Land (2009), The Runaways (2010), Snow White and the Huntsman (2012), On the Road (2012) và Charlie's Angels (2019) ...

Kristen Stewart từng được đề cử giải "Diễn viên trẻ xuất sắc nhất" với vai diễn nhân vật con gái của Jodie Foster trong phim Panic Room (2002). Cô nhận giải thưởng BAFTA “Ngôi sao đang lên” năm 2010 và cô được trao giải “Nữ diễn viên xuất sắc nhất” tại Liên hoan phim quốc tế Milan năm 2011 với phim Welcome to the Rileys (2010). Năm 2015, diễn xuất của Kriten được khen ngợi khi cô hợp tác cùng nữ diễn viên Juliette Binoche trong bộ phim Những bóng mây của Sils Maria, nhờ đó Kristen đạt được một số giải thưởng, bao gồm giải César cho “Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất”, giúp cô trở thành nữ diễn viên người Mỹ đầu tiên giành chiến thắng một giải César của Pháp.

Kristen Stewart là nữ diễn viên có thu nhập cao nhất trong danh sách "Người kiếm tiền nhiều nhất Hollywood năm 2010" của tạp chí Vanity Fair, với thu nhập cô kiếm được ước tính 28,5 triệu đô la Mỹ. Năm 2011, cô đứng hạng nhất trong danh sách “Hollywood's Best Actors” (“Những diễn viên Hollywood xuất sắc nhất”) của tạp chí Forbes. Theo Forbes, Kristen Stewart cũng là diễn viên có doanh thu cao nhất năm 2012 với tổng tài sản là 34,5 triệu đô la Mỹ. Ngoài ra, Kristen còn là gương mặt đại diện của các thương hiệu thời trang nổi tiếng như ChanelBalenciaga.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Kristen Stewart sinh ra và lớn lên tại Los Angeles, California.[2][3][4] Bố là ông John Stewart, một tổng biên tập và người sản xuất truyền hình từng làm việc cho kênh Fox.[5] Còn mẹ là bà Jules Mann-Stewart, một biên kịch và nhà làm phim có nguồn gốc Maroochydore, Queensland, Australia.[4][6][7][8] Kristen học ở trường cho đến năm lớp bảy, sau đó học chương trình ở nhà.[4] Kristen có ba anh trai là Cameron, Taylor và Dana Stewart.[9].Năm 2012, mẹ cô đã đệ đơn ly hôn sau 27 năm chung sống.[10]

Stewart lớn lên ở Thung lũng San Fernando.[11] Cô theo học trường cho đến năm lớp bảy, và khi tham gia nhiều hơn vào diễn xuất, cô tiếp tục học từ xa cho đến khi tốt nghiệp trung học.[12] [13] Vì lớn lên trong một gia đình không làm diễn viên, Stewart nghĩ mình sẽ trở thành nhà biên kịch hoặc đạo diễn, nhưng chưa bao giờ nghĩ mình sẽ trở thành diễn viên, cô nói:

"I never wanted to be the center of attention—I wasn't that 'I want to be famous, I want to be an actor' kid. I never sought out acting, but I always practiced my autograph because I love pens. I'd write my name on everything."

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ năm 2000

[sửa | sửa mã nguồn]
Kristen Stewart năm 2007

Stewart bắt đầu tham gia diễn xuất từ lúc 8 tuổi, sau khi được một người thấy cô biểu diễn trong vở kịch Giáng sinh ở trường tiểu học.[14]Sau khi thử vai trong một năm, cô đã có vai diễn đầu tiên trong bộ phim truyền hình The Thirteen Year của Disney Channel. Bộ phim tiếp theo của cô là The Flintstones of Viva Rock Vegas, nơi cô đóng vai "ring toss girl".[15] Cô cũng xuất hiện trong bộ phim The Safety of Objects (2001), trong vai cô con gái tomboy của một bà mẹ đơn thân rắc rối (Patricia Clarkson). Stewart cũng đóng vai một cô con gái tomboy, mắc bệnh tiểu đường của một người mẹ đã ly hôn (Jodie Foster) trong bộ phim kinh dị Panic Room (2002), của đạo diễn David Fincher. Cô đã được đề cử cho Giải thưởng "Young Artist Award" cho màn trình diễn của mình.[16]Sau thành công của Panic Room, Stewart được chọn tham gia một bộ phim kinh dị Cold Creek Manor (2003), đóng vai con gái của Dennis QuaidSharon Stone và nhận được đề cử Giải thưởng "Young Artist Award" cho màn trình diễn của cô. Vào thời điểm này trong sự nghiệp, cô bắt đầu học tại nhà vì lịch trình của mình.

Ở tuổi 14, vai chính đầu tiên của Stewart là trong bộ phim hài hành động dành cho trẻ em Catch That Kid (2004), cùng với Max Thieriot và Corbin Bleu. Năm đó, Stewart cũng đóng vai Lila trong bộ phim kinh dị Undertow (2004). Stewart đóng vai chính trong bộ phim truyền hình Lifetime / Showtime Speak (2004), dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Laurie Halse Anderson. Stewart năm 13 tuổi vào vai một học sinh trung học, Melinda Sordino, người gần như ngừng nói sau khi bị cưỡng hiếp. Diễn xuất của cô đã được ca ngợi rộng rãi, tờ báo The New York Times nói rằng " Stewart tạo ra một nhân vật thuyết phục đầy đau đớn và bất ổn." [17] Stewart xuất hiện trong bộ phim phiêu lưu giả tưởng Zathura: A Space Adventure (2005), đóng vai Lisa Budwing, người chị gái vô trách nhiệm của hai cậu em trai nhỏ. Trong khi chơi trò chơi board game, họ biến ngôi nhà của mình thành một con tàu vũ trụ lao vào không gian một cách không kiểm soát. Phim được giới phê bình khen ngợi nhưng diễn xuất của Stewart không thu hút được nhiều sự chú ý của giới truyền thông. Nhân vật của cô ấy bất động trong phần lớn thời gian của bộ phim.[18] Năm sau, cô đóng vai Maya trong Fierce People (2006), do Griffin Dunne đạo diễn. Sau bộ phim đó, cô nhận được vai chính Jess Solomon trong bộ phim kinh dị siêu nhiên The Messengers.

Stewart xuất hiện với vai Lucy Hardwicke thời niên thiếu trong In the Land of Women (2007), một bộ phim tình cảm có sự tham gia của Meg RyanAdam Brody. Bộ phim và diễn xuất của Stewart nhận được nhiều ý kiến ​​trái chiều. Cùng năm đó, Stewart có một vai nhỏ trong bộ phim chuyển thể Into the Wild do Sean Penn đạo diễn. Với vai diễn Tracy - một ca sĩ tuổi teen phải lòng nhà thám hiểm trẻ tuổi Christopher McCandless (do Emile Hirsch thủ vai) - Stewart đã nhận được nhiều đánh giá trái chiều. Trong khi Salon.com coi công việc của cô ấy là một "màn trình diễn nhạy cảm, mạnh mẽ" và Chicago Tribune bình luận rằng cô ấy đã làm "rất tốt với bản phác thảo vai diễn", Bộ phim đã nhận được đề cử của Hiệp hội Screen Actors Guild cho giải thưởng " Outstanding Performance by a Cast in a Motion Picture". Sau Into the Wild, Stewart xuất hiện trong Jumper và cũng xuất hiện trong What Just Happened, được phát hành vào tháng 10 năm 2008. Cô đóng vai chính trong The Cake Eaters, một bộ phim chỉ được trình chiếu tại các liên hoan phim. Cả bộ phim và diễn xuất của Stewart đều nhận được nhiều đánh giá tích cực.[19] Nhà phê bình Bill Goodykoontz từ The Arizona Republic nói rằng Stewart "Thực sự tỏa sáng .... Cô ấy xuất sắc ở cả hai khía cạnh của màn trình diễn, mang lại cho Georgia một sức mạnh bất chấp mọi sự thương hại mà người ta có thể cảm thấy, mà không để chúng tôi quên đi sự tổn thương của cô ấy".[20]

Stewart với Taylor Lautner (trái) và Robert Pattinson (giữa) tại San Diego Comic-Con 2012.

Vào ngày 16 tháng 11 năm 2007, Summit Entertainment thông báo rằng Stewart sẽ đóng vai chính Bella Swan trong bộ phim giả tưởng lãng mạn Twilight, dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Stephenie Meyer.[21] Stewart ở phim trường quay bộ phim Adventureland trong khi đạo diễn Catherine Hardwicke đến thăm cô trong cảnh quay không chính thức, vị đạo diễn đã bị "hớp hồn"[22]. Cô đóng vai chính cùng với Robert Pattinson, người đóng vai Edward Cullen, bạn trai ma cà rồng của cô. Stewart mô tả cách tiếp cận của cô ấy với vai trò là "capturing ... that first awakening, that ownership of your body and desire".[23]Twilight được phát hành tại Hoa Kỳ vào tháng 11 năm 2008.[24]Diễn xuất của Stewart nhận được nhiều đánh giá trái chiều, Owen Gleiberman của Entertainment Weekly mô tả cô ấy là "sự lựa chọn diễn viên lý tưởng" và ca ngợi cô ấy vì đã truyền tải "Bella's detachment, as well as her need to bust through it", trong khi Claudia Puig của USA Today chỉ trích diễn xuất của cô ấy vì quá "vụng về" và thiếu sự đa dạng trong biểu cảm khuôn mặt của cô ấy.[25][26]

Cô nhận được nhiều lời khen ngợi cho vai diễn trong Adventureland (2009), một bộ phim hài - chính kịch do Greg Mottola viết kịch bản và đạo diễn, cùng với Jesse Eisenberg đồng diễn. Nhà phê bình James Berardinelli nói, "Stewart không chỉ đơn thuần là hấp dẫn trong vai diễn này - cô ấy khiến "Em" trở thành một người phụ nữ hoàn toàn được nhận thức kết hợp với một số diễn biến phức tạp nhất là kết quả của những gì máy quay thấy được trong mắt Stewart."[27] Kenneth Turan của tờ báo Los Angeles Times nói Stewart "xinh đẹp, bí ẩn và rất giàu kinh nghiệm".[28] và James Rocchi của MSN Movies tuyên bố, “Sức mạnh ma quái, dễ bị tổn thương của Stewart được sử dụng để tạo hiệu ứng đẹp mắt." Stewart tái xuất với vai Bella Swan trong phần tiếp theo của Twilight, có tựa đề "New Moon", một lần nữa nhận được nhiều đánh giá trái chiều cho màn trình diễn của cô. Jordan Mintzer từ Variety gọi Stewart là "trái tim và linh hồn của bộ phim" và khen ngợi cô ấy vì đã mang lại "sức nặng và chiều sâu cho lời thoại ... cô ấy khiến vết thương tâm lý của Bella dường như là chuyện thật."[29] Mặt khác, Manohla Dargis từ The New York Times cho biết "lonely-girl blues sẽ sớm trở nên mệt mỏi"[30], và Bill Goodykoontz từ The Arizona Republic nói "Stewart là một sự thất vọng lớn ... Cô ấy làm mất năng lượng ngay từ bộ phim".[31] Cô diễn lại vai Bella trong bộ phim thứ ba "Eclipse" được phát hành vào tháng 6 năm 2010.[32] Các nhà phê bình ủng hộ bộ phim hơn so với các bộ phim tiền nhiệm.[33]

Từ năm 2010

[sửa | sửa mã nguồn]

Stewart đóng vai chính trong The Yellow Handkerchief, ra mắt tại Liên hoan phim Sundance 2009 và được công chiếu tại rạp vào năm 2010. Cô cũng đóng vai chính cùng với James Gandolfini trong bộ phim Welcome to the Rileys, được công chiếu tại Liên hoan phim Sundance 2010. Cùng năm đó, Stewart đóng vai ngôi sao nhạc rock Joan Jett trong The Runaways, một bộ phim tiểu sử về ban nhạc nổi tiếng của nhà văn kiêm đạo diễn Floria Sigismondi.[34]Stewart đã gặp Jett để chuẩn bị cho vai diễn và ghi âm trước các bài hát trong phòng thu cho bộ phim.[35] Ca ngợi màn trình diễn của Stewart, Bill Holdship của Metro Times đã viết, "Hóa ra Stewart thực sự rất giỏi trong việc đóng vai cô gái lạnh lùng, cứng rắn của Jett, thêm vào đó những điểm yếu cần thiết để biến nó thành một màn trình diễn khá tuyệt vời. .. Stewart là một ngôi sao nhạc rock chính hiệu ở đây."[36]Ngoài ra, A. O. Scott của tờ The New York Times đã ghi nhận một Stewart "thận trọng và khiêm tốn" đã mang đến cho bộ phim "sức sống và linh hồn của nó."[37] Tại lễ trao giải thưởng của Viện Hàn Lâm Anh Quốc lần thứ 63 vào tháng 2 năm 2010, Stewart giành được giải thưởng "BAFTA Rising Star Award".[38]

Kristen Stewart trong lễ trao giải Academy Awards 2010

Vào ngày 6 tháng 12 năm 2011, Stewart đứng đầu danh sách "Hollywood's Best Actors for the Buck" năm 2011 của tạp chí Forbes. Cô được liệt kê là nhân vật có thu nhập cao thứ 13 của ngành giải trí trong danh sách "Hollywood's Top 40" của Vanity Fair trong cùng năm, với thu nhập ước tính là 28,5 triệu đô la cho các vai diễn điện ảnh của cô trong năm.[39] Phần thứ tư trong loạt phim Twilight, "Hừng đông" - Phần 1, được phát hành vào ngày 18 tháng 11 năm 2011. Mặc dù bộ phim nhận được những đánh giá tiêu cực, nhưng diễn xuất của Stewart vẫn được khen ngợi. Gabriel Chong gọi tác phẩm của Stewart là "mê hoặc" và nói rằng cô ấy "khiến mọi cảm xúc của Bella đều cảm nhận một cách sâu sắc, điều khiển âm điệu từ niềm vui, sự run rẩy, lo lắng, đau khổ và trên hết là sự quyết tâm thầm lặng và kiên quyết."[40] Dan Konis của The Village Voice nói rằng Stewart đã "thể hiện một cách tuyệt vời" vai diễn.[41] Một số nhà phê bình nhận thấy sự tương tác giữa Stewart với Pattinson còn thiếu và nói rằng mối quan hệ giữa các nhân vật của họ giống như một "trò chơi đố chữ" trên màn ảnh, hoặc không ai trong ba vai chính thuyết phục được vai diễn của họ.[42][43]

Vào ngày 13 tháng 1 năm 2012, cô trở thành gương mặt đại diện cho nước hoa Balenciaga mới chưa được đặt tên; vào tháng 6, tên của nó được quảng bá là "Florabotanica".[44]Stewart đóng vai Bạch Tuyết trong phim Snow White and the Huntsman (2012).[45]Stewart xuất hiện với vai Mary Lou trong On the Road, bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của Jack Kerouac.[46] Cô kết thúc vai Bella Swan trong "Hừng đông"- Phần 2, phát hành vào tháng 11 năm 2012. Bộ phim thu hút nhiều phản ứng phê bình trái chiều nhưng đã thành công tiền phòng vé, thu về 830 triệu đô la trên toàn thế giới và trở thành phim có doanh thu cao thứ 81.[47][48]Loạt phim Twilight, được đặt tên là "The Twilight Saga", đã thu về 3,32 tỷ đô la trên toàn thế giới, trở thành một trong những loạt phim có doanh thu cao nhất.[49] Theo Forbes, Stewart là nữ diễn viên được trả lương cao nhất thế giới vào năm 2012, với tổng thu nhập là 34,5 triệu USD. Cô kiếm được 12,5 triệu đô la mỗi phần cho hai phần cuối cùng trong loạt phim Chạng vạng, bao gồm cả tiền bản quyền.[50]

Kristen Stewart năm 2012 tại hội nghị San Diego Comic-ConSan-Diego

Vào ngày 11 tháng 12 năm 2013, Chanel công bố Stewart là "new face" của họ cho bộ sưu tập thời trang lấy cảm hứng từ phương Tây. Chiến dịch được quay bởi Karl Lagerfeld và phát hành trực tuyến vào tháng 5 năm 2014.[51]Vào năm 2014, Balenciaga đã phát hành một loại nước hoa mới "Rosabotanica" và Stewart vẫn là gương mặt đại diện cho thương hiệu.[52] Cô đứng thứ 3 trong bảng xếp hạng nữ diễn viên được trả lương cao nhất của Forbes vào năm 2013, với tổng thu nhập là 22 triệu đô la, thứ 10 trong năm 2014 với 12 triệu đô la và thứ 9 vào năm 2015 với 12 triệu đô la. Camp X-Ray, bộ phim đầu tiên của cô trong năm 2014, được công chiếu tại Liên hoan phim Sundance 2014 vào ngày 17 tháng 1.[53]Trong khi nó gây ra nhiều đánh giá trái chiều từ các nhà phê bình, màn trình diễn của Stewart trong vai một người lính trẻ đóng tại trại giam Vịnh Guantanamo đã nhận được nhiều lời khen ngợi.[54] David Rooney của The Hollywood Reporter gọi đây là "tác phẩm màn ảnh hay nhất của cô ấy cho đến nay [đóng vai] một lính canh thiếu kinh nghiệm"[55], trong khi Xan Brooks của The Guardian nói, "Đó là một vai diễn nhắc ta rằng cô ấy là một diễn viên xuất sắc. giống như Into the Wild và Adventureland. ".[56]Năm 2014, cô xuất hiện trong video âm nhạc cho "Just One of The Guys" của Jenny Lewis và trong phim ngắn 9 Kisses của The New York Times.

Stewart tiếp theo đóng vai chính cùng với Juliette BinocheChloë Grace Moretz trong bộ phim Những bóng mây của Sils Maria của Olivier Assayas. Phim được công chiếu lần đầu tại Liên hoan phim Cannes 2014.[57][58] Diễn xuất của cô trong phim đã nhận được sự hoan nghênh của giới phê bình.[59][60]Peter Debruge của Variety khen ngợi "năng lượng kích động, tự phát của Stewart khiến cô ấy trở nên hấp dẫn nhất"[61]Robbie Collin của The Daily Telegraph mô tả vai diễn của cô là "sắc sảo và tinh tế, có sự thấu hiểu và sau đó đột ngột xa cách" và nhấn mạnh "sự nhẹ nhàng tuyệt vời khi chạm vào" trong cách tiếp cận của cô những đoạn twist của bộ phim".[62] Về màn trình diễn này, Stewart đã giành được giải César cho "Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất", trở thành nữ diễn viên Mỹ đầu tiên nhận được đề cử sau ba mươi năm. Cô là người Mỹ thứ hai chiến thắng sau Adrien Brody, người đã giành được giải César cho "Nam diễn viên chính xuất sắc" nhất năm 2003.[63][64]Cùng năm đó, Stewart xuất hiện cùng với Julianne Moore trong Still Alice, một bộ phim chính kịch được công chiếu tại Liên hoan phim quốc tế Toronto 2014. Các nhà phê bình khen ngợi diễn xuất của cô trong phim.[65] Peter Travers của Rolling Stone gọi cô là "tuyệt vời sôi động và dễ gây tranh cãi" và nói: "Ngay cả khi Still Alice đôi khi sa vào tình cảm, Moore và Stewart vẫn hài hước, quyết liệt và hào hoa".[66]

Stewart xuất hiện trong Anesthesia của đạo diễn Tim Blake Nelson, một bộ phim truyền hình độc lập về một nhóm người New York, được phát hành vào ngày 8 tháng 1 năm 2016, bởi IFC Films.[67]Cô lại đóng chung với Jesse Eisenberg trong American Ultra (2015).[68] Cùng năm đó, cô đóng vai chính trong Once and Forever do Karl Lagerfeld đạo diễn. Stewart đóng cặp cùng với Nicholas Hoult trong Equals của đạo diễn Drake Doremus, Equals được phát hành vào ngày 15 tháng 7 năm 2016.[69] Stewart đã được xác nhận tham gia bộ phim Certain Women của Kelly Reichardt vào năm 2015; bộ phim được phát hành vào ngày 14 tháng 10 năm 2016.[70] Cô đóng vai chính trong bộ phim Café Society của Woody Allen, kết hợp với Steve CarellJesse Eisenberg, đánh dấu lần hợp tác thứ ba của cô với Eisenberg.[71] Nó được phát hành vào tháng 7 năm 2016, tạo ra nhiều ý kiến ​​trái chiều.[72] Stewart cũng tái hợp với đạo diễn Olivier Assayas của Clouds of Sils Maria để làm đầu cho bộ phim Personal Shopper của ông, một câu chuyện ma diễn ra trong ngành thời trang.[73] Cô cũng đóng vai chính trong bộ phim chiến tranh Billy Lynn's Long Halftime Walk của Ang Lee,[74] được phát hành vào ngày 11 tháng 11 năm 2016. Vào tháng 12 năm 2016, Stewart xuất hiện trong video âm nhạc chính thức cho đĩa đơn "Ride 'Em on" của The Rolling Stones .[75] Năm 2016, Stewart trở thành nữ diễn viên trẻ nhất được vinh danh tại Liên hoan phim New York.[76] Cùng năm, Stewart cũng là người được vinh danh tại Lễ trao giải Hollywood Awards và nhận được giải thưởng Elle's Women cùng với Amy Adams, Felicity Jones, Anna Kendrick, Aja Naomi King, Helen MirrenLupita Nyong'o.[77]

Kristen Stewart thuyết trình ở Hội nghị WonderCon ở Anaheim, California năm 2012

Vào tháng 5 năm 2016, có thông báo rằng Stewart sẽ ra đạo diễn với một bộ phim ngắn cho nhà xuất bản kỹ thuật số tập trung vào phụ nữ Refinery29. Bộ phim sẽ là một phần của Tuyển tập ShatterBox của họ.[78] Phim ngắn có tựa đề Come Swim đã có buổi ra mắt đầu tiên trên thế giới tại Liên hoan phim Sundance 2017.[79] Vào tháng 6, Stewart xuất hiện trong một chiến dịch quảng cáo của Chanel.[80]Vào năm 2017, Stewart đồng ủy quyền cho một dự án khoa học máy tính về việc sử dụng kỹ thuật mạng thần kinh trong quá trình làm phim ngắn Come Swim của cô ấy.[81] Cùng năm đó, Stewart tổ chức Saturday Night Live lần đầu tiên với khách mời âm nhạc Alessia Cara.[82] và được mời gia nhập Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh.[83]

Năm 2018, Stewart xuất hiện với Chloë Sevigny trong Lizzie, kể về Lizzie Borden, do Craig William Macneill đạo diễn, đã có buổi ra mắt thế giới tại Liên hoan phim Sundance 2018. [84][85] Nó được phát hành vào ngày 14 tháng 9 năm 2018, bởi Saban Films và Roadside Points.[86] [87]Bộ phim nhận được nhiều đánh giá trái chiều từ các nhà phê bình.[88] Cô cũng đóng vai chính trong JT LeRoy, một bộ phim tiểu sử về Laura Albert, cùng với Laura DernDiane Kruger.[89][90]Cô cũng xuất hiện trong video âm nhạc cho "If You Really Love Nothing" của Interpol.[91][92]Cô cũng là thành viên ban giám khảo cuộc thi của Liên hoan phim Cannes 2018.[93]

Từ năm 2020

[sửa | sửa mã nguồn]

Stewart đóng vai nữ diễn viên Jean Seberg trong Seberg, do Benedict Andrews đạo diễn.[94] Phim được công chiếu lần đầu tại Liên hoan phim Quốc tế Venice lần thứ 76 vào tháng 8 năm 2019.[95]Trong khi bộ phim nhận được nhiều đánh giá trái chiều, diễn xuất của Stewart nhận được lời khen ngợi.[96] Tạp chí Time nói rằng màn trình diễn của cô ấy là màn trình diễn xuất sắc thứ 10 trong năm 2019.[97] Stewart trở lại Hollywood với các vai chính trong bộ phim hài hành động Những thiên thần của Charlie (2019) và bộ phim khoa học viễn tưởng Underwater (2020). Bộ phim nhận được nhiều đánh giá trái chiều từ các nhà phê bình trong các bài đánh giá của họ về cả hai bộ phim, nhưng màn trình diễn của Stewart đã được đón nhận nồng nhiệt.[98][99] Stewart đã viết và đạo diễn một bộ phim ngắn có tựa đề "Crickets", là một phần của loạt phim tuyển tập Homemade, kể về câu chuyện của 18 nhà làm phim từ khắp nơi trên thế giới trong thời gian bị cô lập bởi đại dịch COVID-19. Nó được đồng sản xuất bởi công ty sản xuất Pablo Larraín, Fabula. Bộ phim được phát hành trên Netflix vào ngày 30 tháng 6 năm 2020.[100] Stewart sau đó đóng vai chính cùng Mackenzie Davis trong Happhest Season, một bộ phim lãng mạn kỳ nghỉ dành cho LGBT của đạo diễn Clea DuVall, được phát hành vào ngày 25 tháng 11 năm 2020.[101][102]

Vào tháng 6 năm 2020, Stewart được công bố là đã được chọn vào vai Diana, Công nương xứ Wales trong bộ phim chính kịch tiểu sử Spencer của Pablo Larraín, nói về quyết định ly hôn của Diana với Charles, Hoàng tử xứ Wales.[103] Cô đã làm việc với một huấn luyện viên ngôn ngữ và nghiên cứu tư thế của Công nuơng Diana cho bộ phim.[104] Mô tả Diana như một người "bùng lên như một ngôi nhà lấp lánh trên ngọn lửa", Stewart nói rằng cô ấy "cảm thấy tự do và sống động và có thể linh hoạt" trong vai diễn này hơn so với bất kỳ dự án nào trước đây của cô ấy.[105] Bộ phim được công chiếu lần đầu tại Liên hoan phim Quốc tế Venice lần thứ 78 vào tháng 9 năm 2021, nơi bộ phim đã nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt.[106] Các nhà phê bình ca ngợi vai diễn Diana của Stewart, trong đó Jonathan Romney của Screen Daily mô tả nó là "mỏng manh, dịu dàng, đôi khi vui tươi và không có một chút kỳ lạ" và Kyle Buchanan của The New York Times coi cô là "một siêu phẩm của thiên tài".[107]

Stewart được xác định là viết và đạo diễn một bộ phim chuyển thể từ cuốn hồi ký The Chronology of Water của nhà văn Lidia Yuknavitch và trở thành bộ phim đầu tiên chuyển thể từ hồi ký của cô.[108] [109]Cô đóng vai Joan Vollmer, thành viên nữ nổi bật nhất của nhóm Beat Generation, cùng với Ben Foster trong bộ phim đầu tay chưa có tiêu đề của anh, một bộ phim chuyển thể từ các tác phẩm và bức thư đầu tiên của William S. Burroughs.[110] Stewart dự kiến sẽ đóng vai chính cùng với Léa Seydoux và Viggo Mortensen trong phim kinh dị khoa học viễn tưởng Crimes of the Future của David Cronenberg.[111]

Cuộc sống cá nhân

[sửa | sửa mã nguồn]

Stewart cư trú tại Los Angeles.[112] Vào năm 2017, cô tuyên bố rằng mình là người song tính:[113]

"You're not confused if you're bisexual. It's not confusing at all. For me, it's quite the opposite."

Vào năm 2019, Stewart đã được thảo luận về tác động nhận thức giới tính cô ấy đối với sự thành công trong sự nghiệp của cô, Stewart nói rằng đã được cảnh báo không được công khai bạn gái của mình để được chọn vào những vai chính. Cô ấy nói:"I don't want to work with people like that."[114]Cô ấy mắc chứng sợ ngựa.[115] Stewart là một nhà nữ quyền.[116]

Stewart hẹn hò với bạn diễn Michael Angarano trong phim Speak từ năm 2005 đến đầu năm 2009.[117][118]Cô ấy đã có mối quan hệ kéo dài 4 năm với bạn diễn Robert Pattinson trong Twilight.[119] Trong khi hẹn hò với Pattinson, vào tháng 7 năm 2012 Stewart bị bắt gặp ngoại tình với đạo diễn phim Bạch Tuyết & gã thợ săn Rupert Sanders. Vào ngày những bức ảnh bị phát tán, Stewart và Sanders (lúc đó đã kết hôn) đều đưa ra lời xin lỗi công khai.[120] Từ giữa năm 2013 đến mùa thu năm 2016, Stewart có mối quan hệ với nhà sản xuất hiệu ứng hình ảnh Alicia Cargile.[121] Từ cuối năm 2016 đến cuối năm 2018, cô có quan hệ với người mẫu New Zealand Stella Maxwell.[122] Kể từ năm 2019, Stewart đã có mối quan hệ với nhà biên kịch Dylan Meyer. Stewart cho biết vào tháng 11 năm 2021 rằng cô và Meyer đã đính hôn.[123]

Vào năm 2012, Stewart đã ký và tặng chiếc váy cô mặc trong buổi công chiếu The Twilight Saga: Hừng Đông - Phần 2 cho một cuộc đấu giá CharityBuzz mang lại lợi ích cho Quỹ cứu trợ Sandy của Robin Hood Foundation, hỗ trợ lâu dài cho những người bị ảnh hưởng bởi cơn bão Sandy.[124] Năm 2016, cô tham gia xây dựng một trường họcNicaragua thông qua Tổ chức phi lợi nhuận buildOn, với mục tiêu là mang đến cho trẻ em cơ hội được giáo dục trong một ngôi trường an toàn và xóa mù chữ. [125]Năm 2017, cô đã quyên góp được 500.000 đô la để cứu trợ cho người chịu ảnh hưởng từ cơn bão Sandy bằng cách gặp gỡ một "hoàng tử Trung Đông" giấu tên trong 15 phút.[126]

Stewart xếp thứ 7 trong danh sách "Top 99 Women" của AskMen năm 2013.[127] Glamour UK đã vinh danh cô là người phụ nữ mặc đẹp nhất năm 2012, 2013 và 2016.[128] [129][130]Năm 2020, Stewart nhận được Giải thưởng "Nữ diễn viên của thập kỷ" do Hiệp hội các nhà phê bình Hollywood trao tặng.[131]

Danh sách phim

[sửa | sửa mã nguồn]

Phim điện ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên phim Vai diễn Ghi chú
2000 The Flintstones in Viva Rock Vegas Ring Toss Girl Không ghi chú
2001 The Safety of Objects Sam Jennings
2002 Panic Room Sarah Altman
2003 Cold Creek Manor Kristen Tilson
2004 Catch That Kid Maddy
Speak Melinda Sordino
Undertow Lila
2005 Fierce People Maya Osbourne
Zathura Lisa Budwing
2007 The Messengers Jessica "Jess" Solomon
In the Land of Women Lucy Hardwicke
The Cake Eaters Georgia Kaminski
Into the Wild - Miền hoang dã Tracy Tatro
Cutlass Young Robin Phim ngắn
2008 Jumper Sophie Khách mời
What Just Happened Zoe
The Yellow Handkerchief Martine
Twilight - Chạng vạng Isabella "Bella" Swan
2009 Adventureland Emily "Em" Lewin
The Twilight Saga: Trăng non Isabella "Bella" Swan
2010 The Runaways Joan Jett
The Twilight Saga: Nhật thực Isabella "Bella" Swan
Welcome to the Rileys Allison / Mallory (alias)
2011 The Twilight Saga: Hừng đông – Phần 1 Bella Swan Cullen
2012 Bạch Tuyết và gã thợ săn Bạch Tuyết
On the Road - Trên đường Marylou
The Twilight Saga: Hừng đông – Phần 2 Bella Cullen
K-11 Ray's Secretary Góp giọng
2014 Camp X-Ray Amy Cole
Những bóng mây của Sils Maria Valentine
Still Alice Lydia Howland
9 Kisses Fangirl Phim ngắn
2015 Anesthesia Sophie
American Ultra Phoebe
Equals Nia
Once and Forever Coco Chanel Phim ngắn
2016 Certain Women Elizabeth Travis
Café Society Vonnie
Personal Shopper Maureen
Billy Lynn's Long Halftime Walk Kathryn Lynn
2018 Lizzie Bridget Sullivan
JT LeRoy Savannah Knoop
2019 Seberg Jean Seberg
Love, Antosha Herself Phim Tài liệu
Những thiên thần của Charlie Sabina Wilson
2020 Kẻ săn mồi đáy biển Norah Price
Happiest Season Abby Holland
2021 Spencer Diana, Vương phi xứ Wales
2024 Yêu cuồng loạn Lou

Truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Vai trò Ghi chú
1999 The Thirteenth Year Girl in Fountain Line Phim truyền hình
2008 The Sarah Silverman Program Announcer Tập phim: "I Thought My Dad Was Dead, But It Turns Out He's Not"
2017-2019 Saturday Night Live Người dẫn chương trình 2 tập

Âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Nghệ sĩ
2011 "I Was Broken" Marcus Foster
2014 "Just One of the Guys" Jenny Lewis
2016 "Ride 'Em On Down" The Rolling Stones
2018 "If You Really Love Nothing" Interpol

Đạo diễn

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Ghi chú
2014 "Take Me To The South" video ca nhạc của Sage + the Saints
2017 Come Swim Phim ngắn
"Down Side of Me" video ca nhạc Chvrches
2020 Crickets Phần phim ngắn của thuộc chương trình truyền hình "Homemade"

Giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách các giải thưởng và đề cử nhận được bởi Kristen Stewart

Kristen Stewart nhận được nhiều giải thưởng khác nhau, bao gồm Giải thưởng "British Academy Film Award", Giải thưởng "Screen Actors Guild Award", Giải "Quả cầu vàng" và đề cử Giải thưởng "Critics’ Choice Award. Năm 2022, cô giành được đề cử giải Oscars đầu tiên trong sự nghiệp ở hạng mục nữ chính xuất sắc nhất.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Celebrity Central: Kristen Stewart”. People.com. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2012.
  2. ^ Kristen Stewart Biography - Yahoo! Movies
  3. ^ According to the State of California. California Birth Index, 1905-1995. Center for Health Statistics, California Department of Health Services, Sacramento, California. At Ancestry.com
  4. ^ a b c “Kristen Stewart Interview, The Messengers - MoviesOnline”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2009.
  5. ^ “Kristen Stewart - AskMen.com”. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2009.
  6. ^ Larry Carroll (ngày 21 tháng 11 năm 2008). “EXCLUSIVE: 'Twilight' Stars Kristen Stewart & Nikki Reed To Reunite, Play Men In Prison Film 'K-11'. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2008.
  7. ^ Jules Mann-Stewart
  8. ^ Kristen Stewart Biography (1990-)
  9. ^ “Interview from Portrait Magazine”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2009.
  10. ^ “Kristen Stewart's parents divorcing”. The Sydney Morning Herald (bằng tiếng Anh). 3 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  11. ^ Nast, Condé (30 tháng 7 năm 2019). “Cover Story: Kristen Stewart Plays It Cool”. Vanity Fair (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  12. ^ “Kristen Stewart Interview, The Messengers - MoviesOnline”. web.archive.org. 21 tháng 1 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  13. ^ “Kristen Stewart”, Wikipedia (bằng tiếng Anh), 12 tháng 1 năm 2022, truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022
  14. ^ Staff, W. W. D.; Staff, W. W. D. (29 tháng 9 năm 2008). “Girls of Fall: Autumn's Crop of Enchanting Entertainers”. WWD (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  15. ^ “Kristen Stewart - AskMen.com”. web.archive.org. 20 tháng 7 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  16. ^ “Kristen Stewart”, Wikipedia (bằng tiếng Anh), 12 tháng 1 năm 2022, truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022
  17. ^ Genzlinger, Neil (5 tháng 9 năm 2005). “For One Teenager, the Party's Over”. The New York Times (bằng tiếng Anh). ISSN 0362-4331. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  18. ^ Holden, Stephen (11 tháng 11 năm 2005). “From Suburbia and Stranded Somewhere Near Saturn”. The New York Times (bằng tiếng Anh). ISSN 0362-4331. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  19. ^ The Cake Eaters (bằng tiếng Anh), truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022
  20. ^ “Help Center - The Arizona Republic”. help.azcentral.com. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  21. ^ “Twilight: The Movie”. Stephenie Meyer (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  22. ^ December 20, Nicole Sperling Updated; EST, 2019 at 01:21 AM. 'Twilight' hits Hollywood”. EW.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  23. ^ “Kristen Stewart on Charlie's Angels, Twilight, Seberg, and More”. Collider (bằng tiếng Anh). 16 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  24. ^ “Twilight tops the US box-office chart, while Bolt whimpers in third place”. the Guardian (bằng tiếng Anh). 24 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  25. ^ July 30, Owen Gleiberman Updated; EDT, 2020 at 09:29 AM. “Twilight”. EW.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  26. ^ 'Twilight' barely gets the blood flowing - USATODAY.com”. usatoday30.usatoday.com. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  27. ^ Berardinelli, James. “Adventureland”. Reelviews Movie Reviews (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  28. ^ “Archives”. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  29. ^ Mintzer, Jordan; Mintzer, Jordan (18 tháng 11 năm 2009). “The Twilight Saga: New Moon”. Variety (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  30. ^ Dargis, Manohla (19 tháng 11 năm 2009). “Abstinence Makes the Heart ... Oh, You Know”. The New York Times (bằng tiếng Anh). ISSN 0362-4331. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  31. ^ “Help Center - The Arizona Republic”. help.azcentral.com. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  32. ^ "Eclipse" takes $30 million bite from midnight box office”. Reuters (bằng tiếng Anh). 30 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  33. ^ “New "Twilight" sequel earns less than predecessor”. Reuters (bằng tiếng Anh). 4 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  34. ^ Kit,AP, Borys; Kit, Borys; AP (2 tháng 12 năm 2008). “Kristen Stewart to play Joan Jett”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  35. ^ “SuicideGirls”. SuicideGirls. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  36. ^ “Metro Times: Movie Review: The Runaways”. web.archive.org. 14 tháng 7 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  37. ^ Scott, A. O. (18 tháng 3 năm 2010). “Proving Their Mettle in the Men-Only Era of Rock”. The New York Times (bằng tiếng Anh). ISSN 0362-4331. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  38. ^ “Trailer trash: Kristen Stewart; David Parfitt; Bafta parties”. the Guardian (bằng tiếng Anh). 28 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  39. ^ Nast, Condé (2 tháng 2 năm 2011). “Hollywood's Top 40”. Vanity Fair (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  40. ^ “THE TWILIGHT SAGA: BREAKING DAWN PART 1 (2011)”. www.moviexclusive.com. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.[liên kết hỏng]
  41. ^ “Blood is Thicker Than Blood - Page 1 - Movies - New York - Village Voice”. web.archive.org. 28 tháng 11 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  42. ^ “Total Film | GamesRadar+”. gamesradar. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  43. ^ “The Twilight Saga: Breaking Dawn: Part 1 - review | Film”. web.archive.org. 20 tháng 11 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  44. ^ “Kristen Stewart: New face for Balenciaga - Hindustan Times”. web.archive.org. 17 tháng 1 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  45. ^ Adler, Shawn. “Kristen Stewart Confirmed For 'Snow White And The Huntsman'. MTV News (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  46. ^ May 06, John Young Updated; EDT, 2010 at 09:25 PM. 'Twilight' star Kristen Stewart to venture 'On the Road'. EW.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  47. ^ "Breaking Dawn - Part 2": Reviews are in”. www.cbsnews.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  48. ^ “Top Lifetime Grosses”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  49. ^ “Biggest movie franchises: Marvel, Star Wars, Harry Potter and more ranked by box office”. www.cbsnews.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  50. ^ Pomerantz, Dorothy. “Kristen Stewart Tops Our List Of The Highest-Paid Actresses”. Forbes (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  51. ^ Nast, Condé (11 tháng 12 năm 2013). “Kristen Stewart For Chanel Confirmed”. British Vogue (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  52. ^ “Kristen Stewart Goes Topless for Balenciaga's Rosabotanica Fragrance”. E! Online. 7 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  53. ^ “Sundance 2014 Competition Lineup Includes SKELETON TWINS with Bill Hader, CAMP X-RAY with Kristen Stewart, and More”. Collider (bằng tiếng Anh). 4 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  54. ^ Smith, Nigel M.; Smith, Nigel M. (18 tháng 1 năm 2014). “Sundance: What Critics Are Saying About Kristen Stewart in 'Camp X-Ray'. IndieWire (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  55. ^ Rooney, David; Rooney, David (17 tháng 1 năm 2014). 'Camp X-Ray': Film Review | Sundance 2014”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  56. ^ “Camp X-Ray: Sundance 2014 - first look review”. the Guardian (bằng tiếng Anh). 18 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2022.
  57. ^ Kroll, Justin; Kroll, Justin (4 tháng 6 năm 2013). “Kristen Stewart Sets Up Next Two Projects”. Variety (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  58. ^ published, Kelly West (4 tháng 6 năm 2013). “Kristen Stewart Cast In Camp X-Ray And Sils Maria”. CINEMABLEND (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  59. ^ “Stars align for Kristen Stewart in quiet corner of film universe”. Reuters (bằng tiếng Anh). 17 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  60. ^ March 16, Jeff Labrecque Updated; EDT, 2015 at 12:00 PM. “Exclusive: Kristen Stewart explains the modern power of celebrity in 'Clouds of Sils Maria' clip”. EW.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  61. ^ “Kristen Stewart”, Wikipedia (bằng tiếng Anh), 12 tháng 1 năm 2022, truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022
  62. ^ “Clouds of Sils Maria review: 'bewitching'. The Telegraph (bằng tiếng Anh). 14 tháng 5 năm 2015. ISSN 0307-1235. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  63. ^ Brennan, Matt; Brennan, Matt (28 tháng 1 năm 2015). “Kristen Stewart Is First American Actress Nominated for César Awards in 30 Years; 'Saint Laurent' Leads with Ten”. IndieWire (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  64. ^ Tartaglione, Nancy; Tartaglione, Nancy (21 tháng 2 năm 2015). “César Awards: 'Timbuktu' Best Film; Kristen Stewart In Historic Supporting Actress Win”. Deadline (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  65. ^ “Stars align for Kristen Stewart in quiet corner of film universe”. Reuters (bằng tiếng Anh). 17 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  66. ^ Travers, Peter; Travers, Peter (14 tháng 1 năm 2015). 'Still Alice' Movie Review”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  67. ^ Yamato, Jen; Yamato, Jen (3 tháng 11 năm 2013). “Kristen Stewart Joins Tim Blake Nelson's 'Anesthesia'. Deadline (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  68. ^ Times-Picayune, Mike Scott, NOLA com | The. “Kristen Stewart's 'American Ultra' begins filming in NOLA today; new cast members added”. NOLA.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  69. ^ Yamato, Jen; Yamato, Jen (8 tháng 7 năm 2014). “Kate Lyn Sheil Joins Kristen Stewart, Nicholas Hoult In 'Equals'. Deadline (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  70. ^ Busch, Anita; Busch, Anita (28 tháng 2 năm 2015). “Kristen Stewart Joins Untitled Kelly Reichardt Project”. Deadline (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  71. ^ Nast, Condé (9 tháng 3 năm 2015). “Kristen Stewart Reportedly Cast in Woody Allen's Next Movie”. Vanity Fair (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  72. ^ Steinberg, Don (6 tháng 7 năm 2016). 'Café Society': Designing 1930s Hollywood for Woody Allen”. Wall Street Journal (bằng tiếng Anh). ISSN 0099-9660. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  73. ^ Keslassy, Elsa; Keslassy, Elsa (15 tháng 5 năm 2015). “Cannes: Kristen Stewart to Star in Ghost Story 'Personal Shopper' for Olivier Assayas (EXCLUSIVE)”. Variety (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  74. ^ “Kristen Stewart in Talks for Ang Lee's 'Billy Lynn's Long Halftime Walk' (Exclusive)” (bằng tiếng Anh). 1 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  75. ^ “Kristen Stewart”, Wikipedia (bằng tiếng Anh), 12 tháng 1 năm 2022, truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022
  76. ^ Calvario, Liz; Calvario, Liz (23 tháng 8 năm 2016). “NYFF: Film Society Announces Special Events Section and 'An Evening With' Kristen Stewart and Adam Driver”. IndieWire (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  77. ^ Gardner, Chris; Gardner, Chris (25 tháng 10 năm 2016). “Inside Elle's Women in Hollywood Awards With Kristen Stewart, Amy Adams and Lupita Nyong'o”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  78. ^ Jarvey, Natalie; Jarvey, Natalie (2 tháng 5 năm 2016). “Kristen Stewart to Make Directorial Debut With Refinery29”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  79. ^ “Sundance Institute Announces Shorts For 2017 Sundance Film Festival – sundance.org” (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  80. ^ L'Heureux, Catie. “Watch Kristen Stewart's Smoldering Video for Chanel”. The Cut (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  81. ^ “Computer Science”. arxiv.org. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  82. ^ Nast, Condé (5 tháng 2 năm 2017). “Kristen Stewart Tells Donald Trump "I'm So Gay, Dude" on 'SNL'. Teen Vogue (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  83. ^ Nast, Condé (28 tháng 6 năm 2017). “Dwayne Johnson, Kristen Stewart, and Justin Timberlake Are Among Your 774 New Oscar Voters”. Vanity Fair (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  84. ^ Kit, Rebecca Ford,Borys; Ford, Rebecca; Kit, Borys (28 tháng 10 năm 2015). “Kristen Stewart, Chloe Sevigny to Star in Lizzie Borden Movie (Exclusive)”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  85. ^ Ford, Rebecca; Ford, Rebecca (12 tháng 5 năm 2016). “Cannes: 'Lizzie Borden' With Kristen Stewart, Chloe Sevigny Lands Director (Exclusive)”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  86. ^ “Lizzie”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  87. ^ Evans, Greg; Evans, Greg (25 tháng 1 năm 2018). “Saban Films Takes North American Rights To Chloë Sevigny Sundance Starrer 'Lizzie'. Deadline (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  88. ^ Lizzie, truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022
  89. ^ N'Duka, Amanda; N'Duka, Amanda (22 tháng 3 năm 2017). “Laura Dern In Talks To Join Justin Kelly's Biopic 'JT Leroy'. Deadline (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  90. ^ Hipes, Patrick; Hipes, Patrick (16 tháng 5 năm 2017). “Diane Kruger Joins Cast Of 'JT Leroy' Movie – Cannes”. Deadline (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  91. ^ Reed, Ryan; Reed, Ryan (23 tháng 8 năm 2018). “Interpol Recruit Kristen Stewart for 'If You Really Love Nothing' Video”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  92. ^ Rincón, Alessandra (23 tháng 8 năm 2018). “Kristen Stewart and Finn Wittrock Star in Interpol's Wild 'If You Really Love Nothing' Video: Watch”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  93. ^ “Kristen Stewart ditches high heels to go barefoot at Cannes”. BBC News (bằng tiếng Anh). 15 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  94. ^ McNary, Dave; McNary, Dave (15 tháng 3 năm 2018). “Kristen Stewart to Star as Jean Seberg in 'Against All Enemies'. Variety (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  95. ^ Anderson, Ariston; Anderson, Ariston (25 tháng 7 năm 2019). “Venice Competition to Include Roman Polanski, Steven Soderbergh, James Gray's 'Ad Astra,' Todd Phillips' 'Joker'. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  96. ^ August 30, Joey Nolfi; EDT, 2019 at 05:18 PM. “Kristen Stewart praised for 'Seberg' biopic performance as film divides critics”. EW.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  97. ^ “The 10 Best Movie Performances of 2019”. Time (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  98. ^ “Charlie's Angels: What did the critics think?”. BBC News (bằng tiếng Anh). 13 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  99. ^ “How 'Underwater' Filmmaker Used Kristen Stewart's Fear of Water – The Hollywood Reporter”. web.archive.org. 18 tháng 9 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  100. ^ Ravindran, Manori; Ravindran, Manori (23 tháng 6 năm 2020). “Kristen Stewart, Maggie Gyllenhaal Direct in Pablo Larrain's Netflix Short Film Collection 'Homemade' (EXCLUSIVE)”. Variety (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  101. ^ “Kristen Stewart to Star in LGBTQ Rom-Com Happiest Season”. Collider (bằng tiếng Anh). 27 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  102. ^ Couch, Aaron; Couch, Aaron (24 tháng 1 năm 2020). “Tom Holland's 'Uncharted' Moves Back 3 Months to 2021”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  103. ^ Jr, Mike Fleming; Jr, Mike Fleming (17 tháng 6 năm 2020). “Pablo Larraín To Direct Kristen Stewart As Princess Diana In 'Spencer', On When Lady Di Rejected The Fairy Tale Ending: Virtual Cannes Hot Package”. Deadline (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  104. ^ “Kristen Stewart blows critics away as Princess Diana. She's ready to talk about it”. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). 7 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  105. ^ Tartaglione, Nancy; Tartaglione, Nancy (3 tháng 9 năm 2021). 'Spencer's Kristen Stewart Felt "Free, Alive And Taller" Playing Princess Diana – Venice”. Deadline (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  106. ^ Setoodeh, Ramin; Setoodeh, Ramin (3 tháng 9 năm 2021). “Kristen Stewart's Princess Diana Biopic 'Spencer' Stuns Venice, Earning Standing Ovation and Oscar Buzz”. Variety (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  107. ^ “Rave reviews for Kristen Stewart as Princess Diana in new film Spencer”. BBC News (bằng tiếng Anh). 3 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  108. ^ “Kristen Stewart on Charlie's Angels, Twilight, Seberg, and More”. Collider (bằng tiếng Anh). 16 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  109. ^ 1 (15 tháng 5 năm 2018). “Close-up with Kristen Stewart, Feature Films Jury member”. Festival de Cannes 2021 (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả (liên kết)[liên kết hỏng]
  110. ^ Vlessing, Etan; Vlessing, Etan (9 tháng 5 năm 2019). “Kristen Stewart, Tom Glynn-Carney to Star in Ben Foster's Directorial Debut”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  111. ^ Jr, Mike Fleming; Jr, Mike Fleming (29 tháng 4 năm 2021). “David Cronenberg Sets Viggo Mortensen, Léa Seydoux, Kristen Stewart For 'Crimes Of The Future'; Neon, Serendipity Point Firm Summer Start In Greece”. Deadline (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  112. ^ David, Mark; David, Mark (15 tháng 10 năm 2012). “Kristen Stewart Gets a Home of Her Own”. Variety (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  113. ^ “Kristen Stewart: 'It's not confusing if you're bisexual. For me, it's the opposite'. the Guardian (bằng tiếng Anh). 9 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  114. ^ Andrew Pulver. “Kristen Stewart: I was told to tone down my sexuality to land Marvel roles”. The Irish Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  115. ^ “Actors who don't like working with animals”. www.msn.com. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  116. ^ “Kristen Stewart on gender equality: 'It's a really ridiculous thing”. The Independent (bằng tiếng Anh). 13 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  117. ^ “A Photographic Guide to Everyone Kristen Stewart Has Dated”. W Magazine (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  118. ^ Nast, Condé (5 tháng 11 năm 2008). “Q&A: Twilight's Kristen Stewart”. Vanity Fair (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  119. ^ Haramis, Nicholas (17 tháng 8 năm 2016). “Kristen Stewart, the Good Bad Girl”. The New York Times (bằng tiếng Anh). ISSN 0362-4331. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  120. ^ “The aftermath of Kristen Stewart's cheating scandal”. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). 29 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  121. ^ Nast, Condé (15 tháng 6 năm 2015). “Kristen Stewart's Mom Calls Girlfriend Alicia Cargile "A Lovely Girl". Vanity Fair (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  122. ^ “Kristen Stewart and Stella Maxwell Split: What Went Wrong?”. Us Weekly (bằng tiếng Anh). 21 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  123. ^ 'Spencer' star Kristen Stewart reveals she's engaged to Dylan Meyer”. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). 2 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  124. ^ December 18, Nakisha Williams Updated; EST, 2012 at 05:35 PM. “Kristen Stewart auctions off her see-through 'Breaking Dawn: Part 2' dress to help victims of Hurricane Sandy”. EW.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  125. ^ “Build A Primary School in Nicaragua!”. act.buildon.org. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  126. ^ Rivera, Zayda. “Kristen Stewart accepts $500,000 offer from Middle Eastern prince for 15-minute chat”. nydailynews.com. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  127. ^ Editors, AskMen. “Did Your Favorite Women Make It Onto The 2016 #CrushList?”. AskMen (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.Quản lý CS1: văn bản dư: danh sách tác giả (liên kết)
  128. ^ “PHOTOS: Kristen Stewart Tops 'Best Dressed List'. HuffPost (bằng tiếng Anh). 27 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  129. ^ May 03, Nakisha Williams Updated; EDT, 2013 at 11:00 PM. “Glamour UK says Kristen Stewart is the best dressed woman of 2013: Do you agree? -- POLL”. EW.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  130. ^ Nast, Condé (31 tháng 10 năm 2016). “Best Dressed Women 2016 Results: Whose style has come out on top?”. Glamour UK (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.
  131. ^ Staff, Variety; Staff, Variety (10 tháng 1 năm 2020). '1917' Wins Best Picture at 3rd Annual Hollywood Critics Association Awards”. Variety (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2022.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]