Bước tới nội dung

Lịch sử Pakistan

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mohenjodaro Priest
Mohenjodaro Priest

Lịch sử Pakistan

Trước Công Nguyên
Văn hóa Mehrgarh 7000–2500
Văn minh lưu vực sông Ấn 3300–1700
Văn minh Vệ Đà 2000–500
Đế quốc Achaemenes 550–330
Đế quốc Maurya 322–252
Đế quốc Seleukos 312–63
Vương quốc Hy Lạp-Bactria 252–125
Vương quốc Ấn-Scythia 200 TCN –400 CN
Văn minh Càn-đà-la 200 TCN –1021 CN
Vương quốc Ấn-Hy Lạp 180 TCN –10 CN
Công Nguyên
Vương quốc Ấn-Parthia 21–130
Đế quốc Quý Sương 30–375
Đế quốc Sassanid 224–641
Ấn-Sassanid 240–410
Đế quốc Gupta 320–600
Đế quốc Áp Đạt 420–567
Triều Rai 489–632
Triều Kabul Shahi 500–1100
Đế quốc Umayyad 661–750
Đế quốc Pala 770–850
Đế quốc Ghaznavid 963–1187
Triều Mamluk 1206–1290
Triều Khilji 1290–1320
Triều Tughlaq 1320–1413
Triều Sayyid 1414–1451
Triều Lodhi 1451–1526
Đế quốc Mogul 1526–1858
Đế quốc Durrani 1747–1823
Liên minh Sikh 1733–1805
Đế quốc Maratha 1758–1760
Đế quốc Sikh 1799–1849
Ấn Độ thuộc Anh 1849–1947
Lãnh thổ tự trị Pakistan 1947–1956
Cộng hòa Hồi giáo từ 1956

Một bản đồ phác thảo các di tích lịch sử ở Pakistan

Lịch sử của Pakistan bao gồm khu vực Thung lũng sông Ấn [1][2][3][4], trải dài khắp phía tây của tiểu lục địa Ấn Độcao nguyên phía đông Iran.[5] Khu vực này đóng vai trò là mảnh đất màu mỡ của một nền văn minh lớn và là cửa ngõ của Nam Á đến Trung ÁCận Đông.

Nằm trên tuyến đường di cư ven biển đầu tiên của Homo sapiens ra khỏi châu Phi, khu vực này có người ở hiện đại rất sớm.[6][7] Lịch sử 9.000 năm của cuộc sống làng quê ở Nam Á bắt nguồn từ địa điểm Neolithic (7000 - 4300 TCN) của Mehrgarh ở Pakistan,[8][9] và lịch sử 5.000 năm của cuộc sống đô thị ở Nam Á đến các địa điểm khác nhau của Văn minh lưu vực sông Ấn, bao gồm Mohenjo DaroHarappa.[10][11]

Hàng thiên niên kỷ sau đó chứng kiến khu vực Pakistan ngày nay hấp thụ nhiều ảnh hưởng của Đại diện cho những người khác trong các địa điểm Phật giáo cổ xưa của Taxila, và Takht-i-Bahi, tượng đài Hồi giáo Sindhi của thế kỷ 14 ở Thatta và di tích Mughal thế kỷ 17 của thành phố Lahore. Trong nửa đầu thế kỷ 19, khu vực này đã bị Công ty Đông Ấn chiếm đoạt, sau đó, sau năm 1857, sau 90 năm cai trị trực tiếp của Anh và kết thúc bằng việc thành lập Pakistan năm 1947, thông qua những nỗ lực của nhà thơ quốc gia tương lai Allama Iqbal và người sáng lập Pakistan, Muhammad Ali Jinnah. Kể từ đó, đất nước này đã trải qua cả các chính phủ dân sự và quân sự, dẫn đến thời kỳ tăng trưởng kinh tế và quân sự đáng kể cũng như những bất ổn; Các sự kiện có ý nghĩa trong thời gian sau đó, là Chiến tranh giải phóng Bangladesh, năm 1971, với việc Đông Pakistan trở thành quốc gia mới Bangladesh.

Thời tiền sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Thời kỳ đồ đá

[sửa | sửa mã nguồn]

Riwat là một di tích đồ đá cũ trong vùng Thượng Punjab. Di tích Riwat 55, cho thấy nơi này đã có người tiền sử cư trú với niên đại khoảng 45.000 năm trước. Soanian là văn hóa khảo cổ của thời đồ đá cũ thấp, Acheulean. Nó được đặt tên theo Thung lũng Soan ở Sivalik Hills, gần Islamabad / Rawalpindi ngày nay. Ở AdiyalaKhasala, khoảng 16 kilômét (9,9 mi) tính từ Rawalpindi, trên khúc quanh của sông Soan, hàng trăm công cụ đá đã được phát hiện. Không có bộ xương người ở thời kỳ này được tìm thấy.

Thời kỳ đồ đá mới

[sửa | sửa mã nguồn]

Mehrgarh là một di tích thời kỳ đồ đá mới quan trọng được phát hiện vào năm 1974, cho thấy bằng chứng ban đầu về canh tác và chăn gia súc,[12] và nha khoa. Địa điểm này bắt đầu từ 7000 - 5500 TCN) và nằm trên đồng bằng Kachi của Balochistan. Cư dân của Mehrgarh sống trong những ngôi nhà gạch bùn, lưu trữ ngũ cốc trong các vựa lúa, dụng cụ thời trang với quặng đồng, trồng lúa mạch, lúa mì, táo tàu và chà là, và cừu, dê và gia súc. Khi nền văn minh phát triển (5500 - 2600 TCN), cư dân bắt đầu tham gia vào các nghề thủ công, bao gồm đập đá, thuộc da, sản xuất hạt và gia công kim loại. Địa điểm này đã được các cư dân liên tục định cư cho đến 2600 TCN,[13] khi những thay đổi khí hậu bắt đầu xảy ra. Giữa năm 2600 và 2000 TCN, khu vực trở nên khô cằn hơn và Mehrgarh bị bỏ mặc và cư dân bắt đầu di chuyển đến lưu vực sông Ấn, nơi một nền văn minh mới đang trong giai đoạn phát triển ban đầu.

Văn minh lưu vực sông Ấn

[sửa | sửa mã nguồn]

Thời đại đồ đồnglưu vực sông Ấn bắt đầu khoảng 3300 TCN với nền văn minh lưu vực sông Ấn.[14] Cùng với Ai Cập cổ đạiMesopotamia, đó là một trong ba nền văn minh sơ khai của Thế giới cũ, và trong số ba nền văn minh phổ biến nhất, [15] có diện tích 1,25 triệu km 2.[16] Nó phát triển mạnh ở các lưu vực của sông Ấn, ngày nay là các tỉnh Sindh, PunjabBalochistan của Pakistan, và dọc theo một hệ thống các con sông lâu năm, chủ yếu là gió mùa, từng chảy qua vùng lân cận của sông Ghaggar-Hakra theo mùa ở các vùng phía tây bắc Ấn Độ.[17] Vào thời kỳ đỉnh cao, nền văn minh này đã có lượng dân số khoảng 5 triệu người trải rộng trên hàng trăm khu định cư kéo dài đến tận biển Ả Rập đến miền nam và miền đông Afghanistan ngày nay, và dãy Hy Mã Lạp Sơn.[18] Cư dân của lưu vực sông Ấn cổ đại, Harappans, đã phát triển các kỹ thuật mới trong luyện kim và thủ công mỹ nghệ (sản phẩm carneol, khắc dấu) và sản xuất đồng, đồng, chì và thiếc.

Nền văn minh lưu vực sông Ấn trưởng thành phát triển từ khoảng 2600 đến 1900 TCN, đánh dấu sự khởi đầu của nền văn minh đô thị ở lưu vực sông Ấn. Nền văn minh bao gồm các trung tâm đô thị như Harappa, GaneriwalaMohenjo-daro cũng như một nhánh được gọi là văn hóa Kulli (2500 -2000 TCN) ở miền nam Balochistan và được ghi nhận là thành phố được xây dựng bằng gạch, hệ thống thoát nước bên đường và nhiều tầng nhà cửa. Nó được cho là đã có một số phương thức tổ chức thành phố.

Trong thời kỳ cuối của nền văn minh này, các dấu hiệu suy giảm dần dần bắt đầu xuất hiện, vào khoảng năm 1700   TCN, hầu hết các thành phố đã bị bỏ hoang. Tuy nhiên, nền văn minh lưu vực sông Ấn đã không biến mất đột ngột và một số yếu tố của nền văn minh Indus có thể đã sống sót. Việc làm sạch khu vực này trong thiên niên kỷ thứ 3 trước Công nguyên có thể là động lực ban đầu cho quá trình đô thị hóa gắn liền với nền văn minh, nhưng cuối cùng cũng làm giảm nguồn cung cấp nước đủ để gây ra sự sụp đổ của nền văn minh và làm phân tán dân cư ở phía đông. Nền văn minh sụp đổ vào khoảng năm 1700 TCN, mặc dù những lý do đằng sau sự sụp đổ của nó vẫn chưa được biết. Thông qua việc khai quật các thành phố Indus và phân tích quy hoạch và con dấu thị trấn, người ta đã suy ra rằng nền văn minh này có mức độ tinh vi cao trong quy hoạch thị trấn, nghệ thuật, thủ công và thương mại.

Thời kỳ Vệ Đà

[sửa | sửa mã nguồn]
Văn hóa khảo cổ. Các văn hóa GGC, Cemetery H, Copper Hoard và PGW là những nền văn hóa đại diện, gắn liền với tộc Ấn-Arya.

Thời kỳ Vệ Đà (k. 1500 – k. 500 TCN) được cho là đã hình thành trong khoảng từ năm 1500 TCN đến năm 800 TCN. Khi người Ấn-Arya di cư tới thung lũng sông Ấn, họ đã mang theo những truyền thống và tập tục tôn giáo của dân tộc mình để hòa nhập với văn hóa địa phương. Niềm tin tôn giáo của người Ấn-Arya và các tín ngưỡng văn hóa Harappa đã tạo nên nền văn hóa Vệ Đà.[19] [note 1] Người Ấn-Arya vốn là một xã hội xuất hiện từ thời Hậu kỳ Đồ đồng, sống tập trung ở Punjab. Thay vì lập vương quốc, những người trong tộc tổ chức thành các bộ lạc nhỏ, và thường duy trì lối sống chăn thả gia súc. Thời kỳ này, Kinh Vệ-đà là kinh sách cổ nhất của Ấn Độ giáo được phát hành. [note 2]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Các khảo cổ văn hóa được xác định với các giai đoạn của văn hóa Vệ Đà bao gồm văn hóa gốm màu Ochre (Ochre Colored Pottery culture), văn hóa Gandhara Grave, Văn hóa đồ gốm đen và đỏ (Black and red ware culture) và Văn hóa đồ gốm sơn xám (Painted Grey Ware culture).[20]
  2. ^ Khoảng thời gian của giai đoạn này vẫn chưa được xác định chắc chắn. Bác ngữ họcngôn ngữ học chỉ ra rằng Rigveda, kinh Vệ Đà lâu đời nhất, có thể được phát hành khoảng từ năm 1700 đến 1100 TCN, còn được gọi là thời kỳ tiền Vệ Đà. [21]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Young, Margaret Walsh. Cities of The World . Gale Research Company. tr. 439. ISBN 0-8103-2542-X. |ngày truy cập= cần |url= (trợ giúp)
  2. ^ Cilano, Cara (ngày 3 tháng 6 năm 2014). National Identities in Pakistan: The 1971 War in Contemporary Pakistani Fiction (bằng tiếng Anh). Routledge. ISBN 978-1-135-22507-0.
  3. ^ “COUNTRY PROFILE: PAKISTAN” (PDF). Library of Congress. Library of Congress – Federal Research Division. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2020.
  4. ^ Babb, Carla. “Ancient Pakistan Civilization Remains Shrouded in Mystery”. VOA News. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2020.
  5. ^ Rehmat Ali, Chauhdry. “Pakistan: Fatherland of the Pak nations” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 8 tháng 11 năm 2020.
  6. ^ Qamar, Raheel; Ayub, Qasim; Mohyuddin, Aisha; Helgason, Agnar; Mazhar, Kehkashan; Mansoor, Atika; Zerjal, Tatiana; Tyler-Smith, Chris; Mehdi, S. Qasim (2002). “Y-Chromosomal DNA Variation in Pakistan”. The American Journal of Human Genetics. 70 (5): 1107–1124. doi:10.1086/339929. ISSN 0002-9297. PMC 447589. PMID 11898125.
  7. ^ , ISBN 978-1-107-01785-6 |title= trống hay bị thiếu (trợ giúp) Quote: "The record from South Asia (Pakistan, India and Sri Lanka) has been pivotal in discussions of the archaeological signature of early modern humans east of Africa because of the well-excavated and well-dated sites that have recently been reported in this region and because of the central role South Asia played in early population expansion and dispersals to the east. Genetic studies have revealed that India was the gateway to subsequent colonisation of Asia and Australia and saw the first major population expansion of modern human populations anywhere outside of Africa. South Asia therefore provides a crucial stepping-scone in early modern migration to Southeast Asia and Oceania. (pages 81–2)"
  8. ^ , ISBN 978-1-107-11162-2 |title= trống hay bị thiếu (trợ giúp) Quote: "page 33: "The earliest discovered instance in India of well-established, settled agricultural society is at Mehrgarh in the hills between the Bolan Pass and the Indus plain (today in Pakistan) (see Map 3.1). From as early as 7000 BCE, communities there started investing increased labor in preparing the land and selecting, planting, tending, and harvesting particular grain-producing plants. They also domesticated animals, including sheep, goats, pigs, and oxen (both humped zebu [Bos indicus] and unhumped [Bos taurus]). Castrating oxen, for instance, turned them from mainly meat sources into domesticated draft-animals as well."
  9. ^ , ISBN 978-0-19-882905-8 |title= trống hay bị thiếu (trợ giúp), Quote: "(p 29) "The subcontinent's people were hunter-gatherers for many millennia. There were very few of them. Indeed, 10,000 years ago there may only have been a couple of hundred thousand people, living in small, often isolated groups, the descendants of various 'modern' human incomers. Then, perhaps linked to events in Mesopotamia, about 8,500 years ago agriculture emerged in Baluchistan."
  10. ^ , ISBN 978-0-521-28550-6 |title= trống hay bị thiếu (trợ giúp)Quote: "During the second half of the fourth and early part of the third millennium B.C., a new development begins to become apparent in the greater Indus system, which we can now see to be a formative stage underlying the Mature Indus of the middle and late third millennium. This development seems to have involved the whole Indus system, and to a lesser extent the Indo-Iranian borderlands to its west, but largely left untouched the subcontinent east of the Indus system. (page 81)"
  11. ^ , ISBN 978-0-934718-52-3 |title= trống hay bị thiếu (trợ giúp)
  12. ^ Hirst, K. Kris. 2005. "Mehrgarh" Lưu trữ 2017-01-18 tại Wayback Machine. Guide to Archaeology
  13. ^ Possehl, Gregory L. 1996. "Mehrgarh." Oxford Companion to Archaeology, edited by Brian Fagan. Oxford University Press, Oxford
  14. ^ Wright 2009, tr. 1.
  15. ^ Wright 2010:Quote: "The Indus civilization is one of three in the 'Ancient East' that, along with MesopotamiaPharonic Egypt, was a cradle of early civilization in the Old World (Childe 1950). Mesopotamia and Egypt were longer lived, but coexisted with Indus civilization during its florescence between 2600 and 1900 B.C. Of the three, the Indus was the most expansive, extending from today's northeast Afghanistan to Pakistan and India."
  16. ^ Blanc De La, Paul. “Indus Epigraphic Perspectives: Exploring Past Decipherment Attempts & Possible New Approaches 2013 Pg 11” (PDF). University of Ottawa Research. University of Ottawa. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 4 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2014.
  17. ^ Wright 2010, tr. 1.
  18. ^ Feuerstein, Georg; Subhash Kak; David Frawley (1995). In search of the cradle of civilization: new light on ancient India. Wheaton, Illinois: Quest Books. tr. 147. ISBN 978-0-8356-0720-9.
  19. ^ India: Reemergence of Urbanization. Retrieved 12 May 2007.
  20. ^ Witzel 1989.
  21. ^ Oberlies (1998:155) gives an estimate of 1100 BCE for the youngest hymns in book 10. Estimates for a terminus post quem of the earliest hymns are more uncertain. Oberlies (p. 158) based on 'cumulative evidence' sets wide range of 1700–1100