0% found this document useful (0 votes)
9 views12 pages

gui HS (2)

Văn vào 10

Uploaded by

vuducluyen8888
Copyright
© © All Rights Reserved
Available Formats
Download as DOCX, PDF, TXT or read online on Scribd
Download as docx, pdf, or txt
0% found this document useful (0 votes)
9 views12 pages

gui HS (2)

Văn vào 10

Uploaded by

vuducluyen8888
Copyright
© © All Rights Reserved
Available Formats
Download as DOCX, PDF, TXT or read online on Scribd
Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1/ 12

VD 1: Mở đoạn bằng dẫn từ một nhận định tương đồng

“Chúng ta đều ở trong rãnh nước, nhưng có vài người biết ngước lên trời sao”.(Oscar Wilde).
Quả vậy, cuộc sống thường bày ra cho ta những khó khăn, giới hạn. Bởi thế mà phần lớn
chúng ta sẽ an phận với những “rãnh nước”, những gì là nhỏ bé, bình lặng. Chúng ta đâu biết
rằng có ước mơ, hoài bão, khát vọng sẽ giúp ta bứt thoát ra khỏi những giới hạn của bản thân
mà vươn tới các vì sao! Câu chuyện “..” sẽ đem đến những bài học bổ ích để chúng ta biết
nuôi dưỡng ước mơ và biết làm thế nào để biến ước mơ trở thành hiện thực.
VD 2.Mở đoạn từ trải nghiệm, suy ngẫm.
Ta lặng ngắm một giọt nước long lanh nhưng cũng không nguôi say đắm với sự khoáng đạt
của đại dương mênh mông. Ta bằng lòng với ánh sáng quen thuộc của ngọn đèn nhưng cũng
không nguôi khao khát sự lấp lánh của những vì sao. Ta yêu mến một bông hoa nhỏ xinh
nhưng cũng thèm được thả hồn với cánh đồng hoa bạt ngàn hương sắc… Quả vậy, cuộc sống
mà không có ước mơ, khát vọng vươn tới những điều lớn lao, cuộc sống ấy sẽ nghèo nàn đi
nhiều lắm! Câu chuyện “..” sẽ đem đến cho chúng ta những bài học bổ ích về biết nuôi dưỡng
ước mơ và biết làm thế nào để biến ước mơ trở thành hiện thực.
* Kĩ năng viết phần thân đoạn: phần thân đoạn viết đoạn văn 200 chữ bàn về tư tưởng, đạo lí
thông thường các em cần tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Giải thích ý nghĩa câu nói/ vấn đề nghị luận đề bài ra.
- Yêu cầu:
+ Chỉ giải thích những từ ngữ, hình ảnh còn ẩn ý ( Từ khoá)
+ Phải đi từ yếu tố nhỏ đến yếu tố lớn: giải thích từ ngữ, hình ảnh ẩn ý trước rồi mới khái quát
ý nghĩa của cả câu nói.
+ Nên dựa vào nôi dung phần đọc hiểu để giải thích từ ngữ, tránh suy diễn tùy tiện. Bởi vì có
những câu nói khi đứng độc lập thì nó có ý nghĩa khác so với nghĩa trong văn cảnh.
- Nếu đề bài không trích dẫn câu nói thì chỉ cần giải thích ngắn gọn khái niệm/ vấn đề cần bàn
luận.
Bước 2: Bàn luận, nêu quan điểm của cá nhân (thấy đúng, sai hay cả đúng cả sai). Lý giải quan
điểm đó (Vì sao đúng? Vì sao sai?).
Yêu cầu:
+ Phân tách các vế của vấn đề nghị luận để xem xét cặn kẽ, thấu đáo.
+ Khi bàn luận, cần có căn cứ khách quan.
* Minh chứng bằng dẫn chứng, ví dụ cụ thể (biểu hiện như thế nào?).
Yêu cầu:
+ Dẫn chứng phải tiêu biểu, hợp lí, phục vụ cho việc bàn luận.
+ Nên kết hợp dẫn chứng lịch sử – hiện tại, trong nước – ngoài nước, người nổi tiếng – người
bình thường… sao cho phong phú và có sức thuyết phục.
+ Một số cách nêu dẫn chứng thường gặp:
+> Cách 1: nêu số liệu ( nên lấy những số liệu chính xác “những con số biết nói” được đưa ra
bàn luận trên chương trình thời sự, trong các công trình nghiên cứu, các bài báo…).
+> Cách 2: nêu tấm gương điển hình, nổi tiếng (Ví dụ: Bác Hồ, thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký ,
Walt Disney, Bill Gate, …)+> Cách 3: nêu lời nói của một người nổi tiếng (Ví dụ: “Sống là
cho, đâu chỉ nhận riêng mình” (Tố Hữu); nhà văn Nga Lev Tolstoi nói “Lí tưởng là ngọn đèn
chỉ đường. Không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương
2
hướng thì không có cuộc sống”; nhà văn Mark Twain từng nói: “Không có gì buồn hơn tiếng
thở dài của người còn trẻ mà đã bi quan”).
+> Cách 4: Nêu các chương trình truyền hình thực tế: “Chắp cánh ước mơ”, “Lục lạc vàng”;
“Trái tim cho em”, “Cặp lá yêu thương”…
=> Từ những dẫn chứng thực tế đúng đắn đó, các em chỉ ra tầm quan trọng, tác dụng của tư
tưởng, đạo lý đối với đời sống xã hội. Không phân tích dẫn chứng dài dòng.
* Mở rộng vấn đề:
- Một số cách mở rộng:
+ Mở rộng bằng cách giải thích và chứng minh.
+Mở rộng bằng cách đào sâu thêm vấn đề.
+Mở rộng bằng cách lật ngược vấn đề.
Lưu ý:
+ Bác bỏ (phê phán) những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề: bác bỏ những biểu hiện
sai lệch có liên quan đến tư tưởng, đạo lý vì có những tư tưởng, đạo lý đúng trong thời đại này
nhưng còn hạn chế trong thời đại khác, đúng trong hoàn cảnh này nhưng chưa thích hợp trong
hoàn cảnh khác; ….
+ Trong các bước mở rộng, tuỳ vào từng trường hợp và khả năng của mình mà áp dụng cho
tốt, không nên cứng nhắc.
Bước 3: Bài học nhận thức và hành động (Cần phải làm gì?).
Đây là vấn đề cơ bản của một bài nghị luận bởi mục đích của việc nghị luận là rút ra những kết
luận đúng để thuyết phục người đọc áp dụng vào thực tiễn đời sống. Vì thế:
+ Bài học phải được rút ra từ chính tư tưởng, đạo lí mà đề bài yêu cầu bàn luận.
+ Bài học cần chân thành, giản dị, hướng tới tuổi trẻ, không sáo rỗng, hình thức.
+ Nên rút ra hai bài học, một bài học về nhận thức, một bài học về hành động.
* Kĩ năng viết phần kết đoạn: Đưa ra một thông điệp hay một lời khuyên cho mọi người. Các
em có thể lấy một câu nói có ý nghĩa, tương đồng với vấn đề nghị luận ở trong phần đọc hiểu
để chốt đoạn văn.
VD.Hãy tìm ra ước mơ cháy bỏng nhất của mình và hãy bắt tay vào thực hiện từ ngay hôm
nay. Bởi không có gì là không thể làm nếu ta có đủ quyết tâm. “Đủ nắng hoa sẽ nở. Đủ gió
chong chóng sẽ quay” và chắc chắn đủ ước mơ, đủ kiên trì bền bỉ bạn sẽ gặt hái được thành
công. Hãy cháy lên để tỏa sáng!

VD 1. Vận dụng kiến thức lí luận về quy luật sáng tạo nghệ thuật.
Bàn về quy luật sáng tạo nghệ thuật, Wiliam, Wour – thi sĩ người Anh từng nói: “Thơ
ca là sự bột phát của những tình cảm mãnh liệt ”. Với ý niệm ấy, mỗi bài thơ là những dòng
chảy cảm xúc mạnh mẽ, mãnh liệt, giàu tâm huyết của người cầm bút. Đến với miền thơ, là đi
vào thế giới tâm tình của thi nhân. Bởi thơ là tiếng lòng, là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc.
Nhà thơ với “ trực giác nhiệm màu”, với tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, dễ rung động trước ngoại
cảnh, trước nhu cầu bộc bạch của nỗi lòng đã bật lên tiếng thơ mà góp hương sắc cho đời.
Bài thơ A của nhà thơ B chính là một tiếng thơ như thế!
VD 2: Vận dụng kiến thức lí luận về giá trị nội dung và nghệ thuật của thơ ca
Andre Chenien từng nhận định"Nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ, trái tim mới làm nên
thi sĩ". Thật vậy, thơ ca là thế giới tâm hồn, tình cảm, là những rung cảm sâu sắc trước cuộc
đời của nhà thơ; thơ ca thể hiện những tình cảm phong phú, những cung bậc cảm xúc đa
3
dạng, những góc nhìn đa chiều của người nghệ sĩ trước cuộc đời. Thêm vào đó thơ ca là nghệ
thuật ngôn từ nên thơ ca được tạo nên bởi âm thanh, từ ngữ, hình ảnh sinh động, đẹp đẽ nhất.
Cùng quan điểm đó, có ý kiến cho rằng “ Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ”. Bài
thơ “ A” của nhà thơ B là bài thơ đã “ bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ” ( Bài thơ A
của B là bài thơ như thế)
VD3: Vận dụng kiến thức lí luận về vai trò của người nghệ sĩ trong quá trình sáng tạo
Như con ong hút ngàn vạn nhụy hoa mới tạo thành được một giọt mật. Con trai chịu
bao đau đớn ,xót lòng vì “bụi rậm biển khơi” để tạo nên viên ngọc ánh ngời. Sáng tạo nghệ
thuật của người nghệ sỹ cũng là một công việc cực nhọc và vô cùng gian khổ. Một người nghệ
nhân điêu khắc không thể cứ nhìn nguyên mẫu rồi mô phỏng lại trên chất liệu mình đã chọn
hay họa sĩ cũng không chỉ quan sát đời sống đi rồi tái hiện lại bằng những đường nét màu sắc
vô cảm, vô hồn và đặc biệt nhà văn càng không thể chỉ dùng những vốn ngôn ngữ của mình
như một trò chơi “du hí” ghi lại những cảnh “mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông,…” mà họ
phải là “người thư kí trung thành của thời đại”. Nhà thơ B đã gửi gắm lòng mình cùng tài
năng, tâm huyết trong bài thơ A ….
VD 1: Vận dụng kiến thức lí luận về giá trị của văn học
a. Thơ ca là câu hát được vang lên và thăng hoa từ tận sâu nơi xúc cảm của người nghệ sĩ để
rồi những tác phẩm được ra đời từ đó, thơ ca bắt rễ từ tiếng lòng của người cầm bút và được
nhà thơ tinh chắt ngôn ngữ để dệt nên cây đàn muôn điệu làm say đắm lòng người. “ A ” là
bài thơ đã bắt rễ từ nỗi lòng của B và kết tinh từ tài năng nghệ thuật của nhà thơ. Bài thơ thực
sự đã “Bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ”
b. Tố Hữu từng nói:“Một bài thơ hay là bài thơ đọc lên không còn thấy câu thơ mà chỉ còn
thấy tình người và tôi muốn thơ phải thật gan ruột”, điều đó được chứng minh qua “Nói với
con”, Y Phương không viết thơ, mà đó chính là những lời thủ thỉ, tâm tình đầy yêu thương, đầy
xúc động của một người cha với đứa con thơ của mình khi nói về vẻ đẹp của những con người
trên quê hương mình. Chính bởi lẽ đó đã khiến hình ảnh của quê hương, của người đồng mình
hiện lên thật chân thực, cụ thể với bao phẩm chất tốt đẹp. Đó là mạch suối ngọt ngào nuôi
dưỡng tâm hồn ý chí cho con. Đọc bài thơ, hiểu về vẻ đẹp của những con người quê hương, ta
thêm yêu, thêm trân trọng hơn những con người làm giàu đẹp quê hương, đất nước.
VD 2: Vận dụng kiến thức lí luận về đặc trưng thể loại
Thơ đong đầy xúc cảm và người đọc hãy đón nhận nó bằng tất cả trải nghiệm và suy ngẫm.
hãy nghe, cảm nhận và đồng sáng tạo. Dùng cái tâm, cái tình để cảm xúc đánh thức, để “giãi
bày và gửi gắm tâm tư”. Cần tình để bao dung, cần tài để tình thăng hoa và nghệ thuật vượt
ra ngoài quy luật băng hoại của thời gian.Nhà thơ B đã “giãi bày và gửi gắm tâm tư” nơi
lòng mình đến bạn đọc muôn đời về … ( nội dung của tp) – tình cảm luôn được con người trân
quý và được ngợi ca trong dòng chảy thơ ca bởi “Thơ là con đường ngắn nhất đi từ trái tim
đến trái tim”.
VD3. Vận dụng kiến thức lí luận về mối quan hệ giữa văn học và đời sống.
“Văn học là cuộc đời. Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học”. ( Tố
Hữu).Quả thật,mỗi nghệ sĩ lớn đều ý thức sâu sắc về mối quan hệ giữa hiện thực và cuộc sống.
Hiện thực bao giờ cũng là nguồn cảm hứng bất tận của tâm hồn nghệ sĩ. Và “Bài thơ về tiểu
đội xe không kính” cũng không phải một ngoại lệ. Mượn từ hiện thực cuộc sống hình ảnh
những chiếc xe không kính thô sơ, Phạm Tiến Duật thổi vào trang thơ của mình một luồng gió
4
mới.Qua bài thơ, chúng ta càng thêm yêu và tự hào về thế hệ cha anh,về những năm tháng
chiến đấu hào hùng của dân tộc. Dù lớp bụi thời gian có phủ đầy những trang sách và những
đổi mới của cuộc sống làm biến chuyển đi tất cả nhưng với giá trị hiện thực, nhân đạo sâu sắc
bài thơ vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ và trở thành bài ca đi cùng năm tháng.
BÀI 2: GIẢI THÍCH NHẬN ĐỊNH LÍ LUẬN VĂN HỌC THEO CHỦ ĐỀ
I.Giá trị của tác phẩm văn chương / Giá trị nội dung và nghệ thuật:
*. MB tham khảo:
Nguyễn Khải từng nhận định: “Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư
tưởng của nó”. Tác phẩm văn học chân chính là thế, trước hết phải đề xuất được một tư tưởng
mới mẻ. Một nhà văn tài năng phải có những phát hiện riêng của mình về nhân sinh thông qua
một nỗi lòng, một tình huống, một cảnh ngộ... Bởi xét đến cùng, thiên chức cao cả của văn
chương là phản ánh và hướng tới phục vụ đời sống con người. Đồng quan điểm đó, A cho rằng
“…”. Và tác phẩm B của nhà văn C “…”
*KB tham khảo:
Nhận định của A đã khẳng định tính đúng đắn giá trị của văn học nghệ thuật chân chính đó là
nó có thể vượt lên con nước bạc của thời gian bằng những con chữ giàu ý nghĩa nhân sinh. Một
tác phẩm văn học giá trị là khi những con chữ đã kết thúc nhưng lại mở ra cho người đọc một
khoảng trống về chiều sâu suy ngẫm. Điều đó đã làm nên sức sống lâu bền cho tác phẩm B của
nhà văn C đúng như nhận định: “ Một tác phẩm văn học chân chính không kết thúc ở trang
cuối, không bao giờ hết khả năng kể chuyện”(Aimatop).
*. Nhận định:
1.“Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là
tư tưởng đã được rung lên ở các cung bậc của tình cảm, chứ không phải tư tưởng nằm
thẳng đơ trên trang giấy”.
(Theo Nguyễn Khải, Các nhà văn nói về văn, tập 1, NXB Tác phẩm mới, 1985, trang 61)
* Giải thích, bình luận:
VĐNL: Giá trị của tác phẩm và vai trò của tình cảm, cảm xúc trong văn chương.
“Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó” nghĩa là một tác
phẩm nghệ thuật có giá trị, trước hết phải đề xuất được một tư tưởng mới mẻ, có những phát
hiện riêng về chân lý đời sống, có những triết lý riêng về nhân sinh. Bởi xét đến cùng, thiên
chức cao cả của văn chương nghệ thuật là phản ánh con người và hướng tới phục vụ đời sống
con người. Sứ mệnh thiêng liêng của văn chương là bồi đắp, làm giàu đời sống tinh thần của
con người, vậy nên người nghệ sĩ cần gửi được vào tác phẩm của mình tư tưởng sâu sắc về
cuộc sống. Có như vậy tác phẩm mới có sức sống lâu bền trong dòng chảy của thời gian.Văn
chương không chấp nhận những sản phẩm nghệ thuật chung chung, quen nhàm, viết ra dưới
ánh sáng của một khuôn mẫu tư tưởng nào đó. Nếu thế thì văn chương sẽ tẻ nhạt biết bao!
Không, “Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, biết khơi những
nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những gì chưa ai có” (Nam Cao). Điều quan trọng là tư tưởng
của nhà văn không phải là tư tưởng “nằm thẳng đơ trên trang giấy mà là tư tưởng đã được rung
lên ở các cung bậc của tình cảm” nghĩa là tình cảm là ngọn nguồn sâu xa của cái đẹp. Mỗi tác
phẩm nghệ thuật đích thực phải hướng con người tới cái đẹp bằng tình cảm, cảm xúc của nhà
văn là sự lên tiếng, sự thăng hoa cảm xúc của người cầm bút. Ngô Thì Nhậm khẳng định “Hãy
xúc động hồn thơ cho hồn bút có thần” là bởi thế. Tư tưởng của nhà văn phải được rung lên ở
các cung bậc của tình cảm. Cảm xúc trơ lì, mòn sáo, tình cảm thoáng qua, hời hợt thì tư tưởng
5
có sâu sắc đến mấy cũng chỉ “nằm thẳng đơ”, vô hồn, vô cảm trên trang giấy mà thôi. Tư
tưởng của nhà văn không khô khan, cứng nhắc, tư tưởng của nhà văn là tư tưởng nghệ thuật, là
tình cảm, là “nhiệt hứng”, là “say mê”, là tất cả nhiệt tình kết tinh lại (Biêlixky).Văn học là
tiếng nói tâm hồn, tình cảm của cá nhân người nghệ sĩ trước cuộc đời. Nhà văn chỉ có thể sáng
tạo nên tác phẩm khi cảm thấy bức xúc trước cuộc sống con người, cảm thấy có tiếng nói thôi
thúc mãnh liệt nơi con tim, là giây phút “bùng nổ cảm hứng” hay “cú hích của sáng tạo” là vì
vậy. Không phải vô cớ mà Lê Quý Đôn cho rằng: “Thơ khởi phát từ trong lòng ta”. Còn
Nêkraxôp thì tâm sự rằng, tất cả những gì khiến cho ông đau khổ, rạo rực, say mê, ông đều gửi
vào thơ. Như vậy tình cảm mãnh liệt – ấy chính là yếu tố đầu tiên của quá trình sáng tạo nghệ
thuật.
* Đánh giá, mở rộng:
Ý kiến của Nguyễn Khải hoàn toàn đúng đắn bởi lẽ thước đo giá trị của một tác phẩm văn
học là ở sự chân thực, sâu sắc trong phản ánh đời sống với những quy luật khách quan và thế
giới nội tâm của con người. Tác phẩm là cái túi chứa đựng mọi cảm xúc, khát khao, suy cảm
của nhà văn trước hiện thực cuộc sống. Có những đêm mắt không ngủ và lòng rực sáng, tâm
hồn người nghệ sĩ dồn chứa những rung cảm mãnh liệt dẫn tới một nhu cầu: viết, viết và phải
viết để tạo nên những tác phẩm có giá trị vượt lên khỏi ranh giới của sự lãng quên, của cái chết
và hướng tới một sự tồn tại vĩnh hằng.Tác phẩm A của nhà văn/ nhà thơ B là tác phẩm giàu giá
trị tư tưởng và được ngân rung từ tình cảm, cảm xúc mãnh liệt của nhà văn/ nhà thơ. Một tác
phẩm có giá trị xét cho cùng là do tình cảm của người viết có chân thực hay không, có khả
năng đánh động tới tình cảm người đọc hay không. Tư tưởng nghệ là những phát hiện, những
triết lý riêng của nhà văn, một thứ triết lý nhân sinh đầy tình cảm, cảm xúc, thấm đẫm bầu tâm
huyết của người nghệ sĩ. Thế nên, để tp văn chương có giá trị, gửi gắm đến bạn đọc những bức
thông điệp sâu sắc của cuộc đời thì nhà văn phải là người tâm huyết, luôn sáng tạo không
ngừng nghỉ và nhất là luôn chất chứa trong lòng mình bầu máu nóng, chứa chan tình cảm, cảm
xúc mãnh liệt.. Còn bạn đọc đến với tp văn chương bằng chiếc cầu nối từ trái tim đến với trái
tim. Những tư tưởng tâm đắc nhất, tha thiết nhất nhà văn gửi gắm trong tác phẩm sẽ thâm nhập
vào tâm hồn bạn đọc trong hình hài của cảm xúc. Bởi thế, Bạch Cư Dị đã khẳng định: “Cảm
động lòng người không gì bằng tình cảm” và tình cảm là gốc của văn chương.
2.“Tác phẩm văn học chân chính không kết thúc ở trang cuối, không bao giờ hết khả năng kể
chuyện” (Ai-ma-tốp, Con tàu trắng).
* Giải thích; Bàn luận
Ý kiến trên bàn về giá trị, sức sống của một tác phẩm văn chương chân chính. “Tác phẩm
văn học chân chính không kết thúc ở trang cuối, không bao giờ hết khả năng kể chuyện” nghĩa
là khi tác phẩm kết thúc nhưng dư âm còn lại chính là những thông điệp nhân sinh mà nhà văn
gửi gắm trong tác phẩm, nó có sức mạnh tạo nên những cuộc đối thoại miên man bất tận bởi
“Khi tác phẩm kết thúc, ấy là lúc cuộc sống của nó mới thực sự bắt đầu”. Bất tử, vĩnh hằng,
vượt thoát khỏi sự băng hoại của thời gian, đó luôn là một niềm hạnh phúc lớn lao đồng thời
cũng là một sứ mệnh cao cả của tác phẩm văn chương đích thực. Tác phẩm chân chính là sản
phẩm sáng tạo đặc biệt được hình thành qua quá trình lao động đặc thù của nhà văn, là một văn
bản ngôn từ hoàn chỉnh mà thông qua nó, nhà văn muốn gửi gắm những suy ngẫm, cách đánh
giá của mình về thế giới và nhân sinh để rồi khi khép trang sách lại, người đọc vẫn không
ngừng miên man nghĩ về những câu chuyện mà nhà văn đã gợi ra. Mỗi tác phẩm ra đời đều là
một thành quả nghệ thuật chứa đầy tâm huyết của nhà văn. Bởi đó là nơi để nhà văn gửi gắm
6
những tình cảm sâu lắng nhất, những cảm xúc, khát vọng chân thành nhất, mãnh liệt nhất về
con người và về cuộc đời. Dưới mỗi con chữ sáng tạo của nhà văn là biết bao xúc động, biết
bao tình yêu cũng như nỗi đau đời trong tâm hồn nhạy cảm của người cầm bút. Khi thực hiện
sứ mệnh sáng tạo của mình, nỗ lực tận hiến hết sức mình với khao khát cho ra đời những tác
phẩm có giá trị, nhà văn không chỉ hướng tâm hồn con người đến chân, thiện, mỹ mà còn giúp
con người đào luyện mình ngày càng hoàn thiện hơn, ngày càng nhân ái và tốt đẹp hơn.Thông
qua những tác phẩm đó, nhà văn khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, khát vọng khôi phục và
bảo vệ cái tốt đẹp. Văn bản kết thúc nhưng dư âm của nó thì còn vang vọng mãi. Nó đòi hỏi
người đọc phải tự nâng mình lên, trau dồi tri thức, hiểu biết để biến vốn sống thành chất sống.
Có như thế mới đồng hành cùng nhà văn trong việc sáng tạo tác phẩm chân chính.
* Đánh giá, mở rộng
Ý kiến trên hoàn toàn đúng đắn bởi lẽ để có những tác phẩm văn chương đích thực,
sống mãi với thời gian, “không bao giờ hết khả năng kể chuyện” thì nhà văn phải đến với cuộc
sống, đến với con người bằng cả tấm lòng, bằng trái tim mẫn cảm với tất cả sự nâng niu, trân
trọng trong nguồn cảm hứng của khát khao sáng tạo. Khi và chỉ khi nhà văn thực sự “sống”
giữa cuộc đời, tha thiết gắn bó và khao khát hòa nhập với cuộc đời thì mới có thể cho ra đời
những tác phẩm văn học thực sự có giá trị. Và đến lượt mình, những tác phẩm đích thực chỉ có
thể bắt nguồn từ những rung động chân thành của nhà văn, từ hơi thở ấm nóng của cuộc đời.
Người nghệ sĩ muốn cho đứa con tinh thần của mình sống mãi với thời gian phải tạo cho tác
phẩm những khoảng trống, những nốt lặng để người đọc khám phá, thưởng thức và trông
nhìn…Tác phẩm A của nhà văn B đã thực sự “ Không kết thúc ở trang cuối, không bao giờ hết
khả năng kể chuyện”. Để làm được điều này, phải bằng tài năng, tâm huyết, sự miệt mài, sáng
tạo không ngừng nghỉ và cả bản lĩnh sự dấn thân để khám phá, tìm tòi và sáng tạo, khát khao
cống hiến cho cuộc sống, cho con người, vì phẩm giá con người của người cầm bút. Như vậy,
muốn hiểu rõ và nắm bắt được linh hồn của tác phẩm thì người đọc không chỉ dùng tình cảm
để cảm nhận mà còn phải dùng lí trí để phân tích và thấu hiểu đồng cảm cùng nhà văn…. Văn
chương không thể tự nó vượt thời gian mà phải bay lên nhờ đôi cánh của người đọc bởi “Nhà
văn là người sáng tạo ra tác phẩm nhưng chính người đọc tạo nên số phận cho
nó”( M.gorơki).
II. Chức năng giáo dục
*MB tham khảo: Bàn về chức năng giáo dục trong tác phẩm văn chương, nhà văn M. Gorki
khẳng định: “ Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản
thân và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lí”. Thật vậy, văn học là nơi nương
tựa tâm hồn, nâng đỡ niềm tin của con người vào cuộc sống, là nơi nuôi dưỡng khát vọng, ước
mơ hướng về tương lai tốt đẹp. Chính những điều đó làm cho giá trị của văn học được thăng
hoa và đón nhận. Đồng quan điểm đó B cho rằng “…” và tác phẩm A của nhà văn C đã
……….
* KB tham khảo
Ý kiến của B đã khẳng định vai trò của chức năng giáo dục trong tác phẩm văn chương. Văn
học không chỉ đánh thức tình yêu thương trong lòng người mà còn thắp lên tình yêu trước cái
đẹp để từ đó gìn giữ chất người trong con người. Nghệ thuật đã trở thành nhịp cầu đưa những
trái tim đồng cảm xích gần nhau hơn. Tác phẩm A của nhà văn C đã đạt đến những gì giá trị
7
cao đẹp ấy, neo đậu mãi trong trái tim bạn đọc bởi lẽ “ Nghệ thuật là sự vươn tới, sự hướng về,
sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người “ ( Nguyên Ngọc)
*Nhận định:
1. “Nghệ thuật là sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con
người”. ( Nguyên Ngọc,“ Báo văn nghệ” số ra ngày 21/10/1987).
* Giải thích.
Ý kiến trên bàn về chức năng giáo dục của nghệ thuật
- Nghệ thuật chỉ phạm trù lớn, bao gồm cả văn học và các ngành nghệ thuật khác.
“ Nghệ thuật là sự vươn tới, sự hướng về...tính người” : Muốn nói tới sự khám phá, phản ánh
vẻ đẹp nhân bản, nhân văn của nghệ thuật chân chính.
- “Nghệ thuật là… sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người”, đó là vai trò cảm hóa, tác
động tích cực, chức năng bồi bổ tâm hồn con người của văn học nghệ thuật.
-> Ý kiến của Nguyên Ngọc muốn đề cao nghệ thuật nói chung, văn học nói riêng: luôn mang
thiên chức cao cả là phản ánh, ngợi ca vẻ đẹp nhân tính của con người và vì thế, văn học nghệ
thuật đảm nhận chức năng nhân đạo hoá con người, giúp con người hoàn thiện hơn.
* Bình luận.
- Ý kiến đúng đắn, có sở từ lí luận về bản chất của nghệ thuật: Nghệ thuật chân chính bao giờ
cũng vươn tới các giá trị: chân, thiện, mĩ - phục vụ cho những nhu cầu chính đáng của con
người.Văn học nghệ thuật vừa là sản phẩm phản ánh đời sống một cách khách quan vừa là một
hình thức biểu hiện tư tưởng tình cảm chủ quan, cũng là phương tiện giao tiếp quan trọng của
con người. Nó có nhiều chức năng trong đó có chức năng nhận thức và quan trọng hơn cả là
chức năng giáo dục, nhân đạo hoá con người… Là sản phẩm tinh thần của con người, do con
người tạo ra để đáp ứng những nhu cầu trong đời sống nhất là đời sống tâm hồn, văn học chỉ
thực sự có giá trị khi nói lên tiếng nói của tâm hồn con người, thể hiện thái độ trân trọng, ngợi
ca, bảo vệ con người. Vì vậy hướng về tính nhân văn, tinh thần nhân đạo bao giờ cũng là vấn
đề cốt yếu làm nên giá trị lâu bền của văn học chân chính… Tác phẩm văn học thể hiện tính
nhân văn và tinh thần nhân đạo qua nhiều phương diện: phê phán, tố cáo tội ác của những thế
lực đã chà đạp quyền sống con người, tập trung ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp, thấu hiểu,
cảm thông tâm tư tình cảm, nguyện vọng ước mơ của con người giúp con người bày tỏ ước
nguyện…
* Đánh giá:
- Ý kiến “Nghệ thuật là sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con
người” hoàn toàn đúng đắn bởi lẽ nghệ thuật khơi dậy ở ta niềm tin vào sự tất thắng của cái
thiện, niềm tin vào cuộc sống…Ta đồng cảm trước những nỗi đau, trước những nỗi khốn khổ
của họ, “Văn học là tiếng hát của con tim, là nơi dừng chân của tâm hồn” (Khuyết danh). Điều
cốt lõi của nghệ thuật chính là lòng nhân ái. Nghệ thuật đã trở thành nhịp cầu đưa những con
tim đồng cảm xích lại gần nhau hơn để cùng chia sớt những vui buồn, những ước mơ, khát
vọng tuy bé nhỏ nhưng rất đỗi thân thương và ý nghĩa. Nghệ thuật không chỉ khơi lên trong ta
những cảm xúc nhẹ nhàng, êm ái mà còn dạy ta biết xót thương, căm phẫn, lên án trước những
cái xấu xa, cái ác trong cuộc sống.Nghệ thuật ta giúp thanh lọc tâm hồn, thắp lên trong ta bao
yêu thương, khát vọng, chắp thêm cho ta đôi cánh để luôn vững vàng trước những giông tố
cuộc đời. Những tác phẩm nghệ thuật chân chính có khả năng thanh lọc tâm hồn con người,
nâng cao tầm vóc của con người và “ níu giữ mãi mãi tính người cho con người”.
+ Bài học cho người sáng tác và tiếp nhận:
8
- Ý kiến của Nguyên Ngọc trở thành phương châm, nguyên tắc sáng tạo của người nghệ sỹ
chân chính; đòi hỏi nhà văn phải có tầm nhìn sâu rộng, có tư tưởng nhân văn, nhân đạo… Sự
đa dạng này tuỳ thuộc ở cá tính sáng tạo, phong cách nghệ thuật, phương pháp sáng tác của
nghệ sĩ…
- Quan điểm này cũng trở thành tiêu chí đánh giá văn học nghệ thuật đối với bạn đọc…
--------------------------------------------
III. Chức năng thẩm mỹ:
MB tham khảo:
Charles DuBos khẳng định : “Văn học, đó là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh sáng.”. Văn
chương muôn đời là thế, như dòng sữa ngọt lành xoa dịu tâm hồn con người, mỗi trang văn
được mở ra như những nấc thang đưa bạn đọc đến với thế giới của cái đẹp. Vì vậy, người nghệ
sĩ thông qua đôi bàn tay nghệ thuật đã chắt lọc, gọt rũa những gì tinh túy nhất để tạo nên một
tác phẩm óng ánh cái đẹp tự trong tâm khảm và từng câu từng chữ trên trang hoa, giúp cho
người đọc cảm thấu được cái đẹp trong cuộc đời. Đồng quan điểm đó, A cho rằng……Và nhà
văn B đã thực sự dẫn dắt bạn đọc đến xứ sở của cái đẹp trong tác phẩm C
*KB tham khảo:
Ý kiến D đã đề cập đến vai trò của chức năng thẩm mĩ trong tác phẩm văn chương.
Tiếng ca từ văn chương bao giờ cũng vui tươi và rạo rực,giai điệu của văn chương bao giờ
cũng đằm thắm và ngọt ngào. Khi những cung bậc cảm xúc đó được cất lên chúng giống như
một bản nhạc du dương được tạo nên từ con mắt sắc sảo của người nghệ sĩ chạm với tâm hồn
người đọc. Từ đó,văn chương sẽ giúp con người có những nhận thức mới mẻ và cảm nhận sâu
sắc hơn về cái đẹp của cuộc đời,của con người trong từng trang văn. Và cái đẹp mà nhà văn A
mang đến trong tp B là vẻ đẹp mang nhiều giá trị đặc sắc,neo đậu mãi trong bến tâm hồn bạn
đọc,bởi lẽ: “Đã là văn chương thì phải đẹp” ( Nguyên Ngọc)
*Nhận định:
Văn học đem lại cho con người niềm vui trong sáng trước cái đẹp của sự sống.
Nhận định tương tự: Nhà văn Nguyên Ngọc quan niệm : đã là văn chương thì phải đẹp)
* Giải thích, bàn luận
Ý kiến trên bàn về giá trị thẩm mĩ trong tác phẩm văn chương. “Văn học” là loại hình nghệ
thuật dùng ngôn từ làm chất liệu để sáng tạo nên tác phẩm. Văn học có chức năng nhận thức,
phản ánh, khám phá đời sống theo quy luật của cái đẹp, nhằm thỏa mãn cho con người những
tình cảm thẩm mĩ vô cùng phong phú. Văn học nhận thức, phản ánh, khám phá đời sống và thể
hiện tư tưởng tình cảm bằng hình tượng nghệ thuật. Văn học đem lại cho con người “niềm vui
trong sáng” nghĩa là đem lại những xúc cảm, vui sướng lành mạnh của con người khi tiếp nhận
một tác phẩm văn học nào đó. “Cái đẹp của sự sống” là cái đẹp của thiên nhiên, của con người,
của tình đời, của tình người… Với tư cách là một hoạt động sáng tạo, văn học đảm nhận chức
năng thẩm mĩ tích cực, không một lĩnh vực nào khác có thể thay thế. Trong rất nhiều lí do dẫn
đến sự tồn tại có ý nghĩa của tác phẩm văn học thì việc làm thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ cho con
người có tính chất quyết định. Văn học là sản phẩm của quá trình sáng tạo tuân theo quy luật
của cái đẹp. Vì vậy văn học không những làm thỏa mãn nhu cầu thưởng thức cái đẹp của con
người mà còn giúp con người có khả năng nhận thức, hành động theo cái đẹp. Một khi tác
phẩm văn học làm được điều đó là đã có đóng góp vào việc hoàn thiện nhân cách của con
người. Bởi lẽ, con người khi đã có nhận thức, hành động theo cái đẹp thì sẽ giảm thiểu được
cái xấu, cái ác. Tác phẩm A của nhà văn B đã “đem lại cho con người niềm vui trong sáng
trước cái đẹp của sự sống”.
9
* Đánh giá
Ý kiến “văn học đem lại cho con người niềm vui trong sáng trước cái đẹp của sự sống”
hoàn toàn đúng đắn. Bởi lẽ, Bởi văn học là sản phẩm của quá trình sáng tạo tuân theo quy luật
của cái đẹp. Vì vậy, văn học không những làm thỏa mãn nhu cầu thưởng thức cái đẹp của con
người mà còn giúp con người có khả năng nhận thức, hành động theo cái đẹp. Và tác phẩm A
của nhà văn B đã” đem lại cho con người niềm vui trong sáng trước cái đẹp của sự sống”. Điều
đó đòi hỏi người nghệ sĩ phải có một trái tim nhạy cảm để có thể cảm nhận được vẻ đẹp của
cuộc sống, để tạo nên một tác phẩm có giá trị. Còn bạn đọc khi tiếp nhận cần mở lòng mình để
cảm thấu cái mạch ngầm mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm, để từ đó bước vào địa hạt của
cái Đẹp.
---------------------------------------------------------
IV.Đặc trưng của thơ ca ( Vai trò của tình cảm, cảm xúc trong thơ ca); Mối quan
hệgiữa đặc trưng và vai trò, ý nghĩa của thơ ca.
* MB tham khảo
1.Ra-xin Gamzaton viết : “Thơ sinh ra từ tình yêu và lòng căm thù, từ nụ cười trong sáng hay
giọt nước mắt đắng cay”.Thơ muôn đời là thế, luôn cất lên từ trái tim sâu nặng với cuộc đời,
với con người của nhà thơ. Đồng quan điểm đó, D cho rằng "....." Và bài thơ A của nhà thơ
B….là bài thơ
2. Nhà thơ Tố Hữu từng viết : “ Thơ chỉ bật ra trong tim khi cuộc sống đã tràn đầy”. Thơ là thế
luôn bắt rễ sâu vào vào cuộc đời để từ đó trái tim người nghệ sĩ sẽ ngân lên những cung bậc
cảm xúc, những nỗi niềm tâm tư để rồi từ trái tim của một người, thơ làm rung động trái tim
của muôn người. Đồng quan điểm đó, D cho rằng “….” Và bài thơ A của nhà thơ B …
*KB tham khảo:
Nhận định “ ….” đã khẳng định vai trò của tình cảm, cảm xúc trong thơ. Nghệ thuật chân
chính vốn sinh thành trên đời sống tinh thần con người, vì thế nếu không có niềm cảm hứng
say mê, tình cảm chân thành, cảm xúc mãnh liệt, con người chỉ có thể viết nên những câu chữ
vô hồn, trống rỗng. Tình cảm, cảm xúc từ đó mà trở thành cái gốc, cái cốt lõi tạo nên giá trị
của một tác phẩm, là thước đo tài năng của thi nhân, bởi: “Cảm động lòng người trước hết
không gì bằng tình cảm, và tình cảm là cái gốc của văn chương”(Bạch Cư Dị)
* Nhận định tham khảo
1.“Đọc một câu thơ hay nghĩa là ta bắt gặp tâm hồn một con người” (Atona Phrăng xơ).
*Giải thích:
Nhận định của Atona Phrăng xơ đã bàn về đặc trưng của thơ ca. ( Hoặc: Nhận định
của Atona Phrăng xơ đã bàn về vai trò của tình cảm, cảm xúc trong thơ) Thơ là tiếng nói trữ
tình, tiếng nói của trái tim mang tính cá thể sáng tạo của chủ thể trữ tình. Thơ là cuộc đời cũng
là trái tim. Tình cảm trong thơ là một trong những yếu tố quan trọng đem đến sức rung động
của thi ca. "Thơ muốn làm cho người ta khóc trước hết mình phải khóc. Thơ muốn làm cho
người ta cười trước hết mình phải cười." bởi vậy để có được một câu thơ hay, để truyền tải
được sợi dây tình cảm người nghệ sĩ mang trong lòng, câu thơ phải xuất phát từ cái tâm và cái
tài của người cầm bút. .“Đọc ” là quá trình tiếp nhận, tìm hiểu, suy ngẫm thi phẩm, là đồng
sáng tạo để cảm thấu những cảm xúc, vui buồn, trăn trở cùng nhà thơ. “Câu thơ hay” là câu
thơ có giá trị về cả nội dung và hình thức, hình thức biểu hiện đồng nhất với nội dung, tình
cảm của thơ làm rung động trái tim người đọc. Khi “đọc một câu thơ hay”, chúng ta sẽ “bắt
gặp”, tức là phát hiện, gặp gỡ, đồng cảm với những suy nghĩ,tư tưởng, tình cảm và cảm xúc
của người nghệ sĩ. Câu thơ, bài thơ bao giờ cũng biểu đạt tư tưởng, tình cảm của nhà thơ, cảm
10
xúc càng mãnh liệt, sâu sắc, càng thăng hoa thì càng lay động và ám ảnh trái tim bạn đọc. Đọc
bài thơ “ Cảnh khuya” ta gặp gỡ tâm hồn yêu say cái đẹp và tấm lòng vì dân, vì nước của Bác
* Đánh giá, mở rộng:
Ý kiến của Atona Phăng xơ hoàn toàn đúng đắn,bởi lẽ thơ là thế giới tâm hồn, tình cảm
của con người, là những cảm xúc,rung động, những suy tư, trăn trở về cuộc đời của người cầm
bút, có như vậy, thơ mới lay động và neo đậu trong lòng người. Thơ hay là thơ lay động tâm
hồn con người bằng cảm xúc, tình cảm. Đọc thơ, là đọc “ Cái mạch ngầm văn bản phía sau”,
đằng sau những con chữ, bạn đọc cảm thấu tâm tư, nỗi lòng, tư tưởng, tình cảm của nhà thơ,
cùng đồng điệu với tiếng lòng nhà thơ. Niềm vui của người đọc thơ là bắt gặp tâm tình, tâm
hồn nhà thơ để từ đó thăng hoa trong cảm xúc.Song để có thơ hay, nhà thơ bên cạnh sự sâu sắc
của tình cảm, sự phong phú của cảm xúc cần nghiêm túc, nhiệt huyết trong lao động nghệ
thuật. Với người đọc thơ, đến với bài thơ là để trải nghiệm một tâm trạng, một cảm xúc và
kiếm tìm sự tri âm. Do vậy, khi tìm đến một tác phẩm thơ, người đọc quan tâm nhiều tới cảm
xúc, tới tình cảm mà nhà thơ kí thác. Bài thơ “ A” của nhà thơ B đã mang đến cho người đọc
những tình cảm chân thành, khơi dậy trong lòng bạn đọc những tình cảm cao đẹp với, gia
đình,quê hương, đất nước. Bài thơ đã đi vào lòng người bởi vẻ đẹp tâm hồn thanh cao của nhà
thơ.
2. Bàn về thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Quý cho rằng: “Thơ là sứ giả của
tình yêu”.
*Giải thích; bàn luận.
“Thơ” là hình thức sáng tác văn học nghiêng về thể hiện cảm xúc thông qua cách tổ
chức ngôn từ đặc biệt, giàu nhạc tính, giàu hình ảnh và gợi cảm…”Sứ giả” là người đại diện,
người kết nối, người đưa tin. Với cách nói khẳng định, ý kiến đã khái quát về đặc trưng, vai trò
của thơ ca trong cuộc sống. Thơ bồi đắp tình yêu thương, kết nối tâm hồn con người,thể hiện
tình cảm,cảm xúc của con người.
Ý kiến trên bàn về đặc trưng của thơ ca. Ý kiến đi từ bản chất cốt lõi của thơ ca là
“bắt rễ nảy nở nơi lòng người”, thơ là tiếng lòng xuất phát từ yêu cầu của nhà thơ, làm thơ là
để được giãi bày tìm thấy tiếng nói tri ân; xuất phát từ quy luật người tiếp nhận, đến với thơ là
được trải nghiệm một cảm xúc, tâm trạng, đi tìm hồn mình qua những trang thơ. Thơ là một
thể loại văn học thuộc phương thức biểu hiện trữ tình. Thơ tác động đến người đọc bằng sự
nhận thức cuộc sống, những liên tưởng, tưởng tượng phong phú. Thơ là tiếng nói của tình cảm
con người, những rung động của trái tim trước cuộc đời bởi nhà thơ Pháp Alfret de Mussé đã
từng chia sẻ:” hãy biết rằng chính quả tim ta đang nói và thở than lúc bàn tay đang viết”. Tuy
nhiên, tình cảm trong thơ không tự nhiên mà có, mà đó phải xuất phát từ tình yêu chân thành
của tác giả dành cho đời, dành cho người. Và thơ được sinh ra là để thể hiện cảm xúc của con
người, thơ bồi dưỡng cho tâm hồn con người trở nên phong phú, làm thơ là quá trình đi tìm
những tâm hồn đồng điệu, đến với thơ giúp gắn kết trái tim giữa người với người, và con
người với cuộc đời. Vì vậy mà “ thơ là sứ giả của tình yêu”. Và bài thơ A của nhà thơ B là “ sứ
giả của tình yêu”
*Đánh giá, mở rộng.
Ý kiến của Nguyễn Hữu Quý hoàn toàn đúng đắn bởi lẽ thơ là thế giới tâm hồn, tình
cảm con người, là những cảm xúc, rung động, những suy tư, trăn trở của người cầm bút, có
vậy thơ mới lay động và neo đậu trong lòng người. Tâm hồn người là thơ đẹp lắm, mơ mộng
11
lắm nhưng bao giờ cũng phải cúi xuống cuộc đời theo nghĩa trần thế nhất để yêu thương bởi
thơ trước hết là cuộc đời, xuất phát từ tình yêu, từ nụ cười trong sáng hay giọt nước mắt đắng
cay. Những hạt thơ ấp ủ trong tim, lớn dần và nở ra những đóa hoa thơ tuyệt đẹp. Và bài thơ A
của nhà thơ B đã chạm đến những chân lí giản dị - là bản chất, cốt lõi mang tính đặc trưng của
thơ ca và bài thơ đã thực sự “ là sứ giả của tình yêu”. Để có được những câu thơ hay, để truyền
tải được sợi dây tình cảm trong tâm hồn mình,nhà thơ phải có tình yêu mãnh liệt với cuộc đời
và tài năng nghệ thuật độc đáo. Với bạn đọc, đến với thơ ca là đến với thế giới của tình yêu,để
tìm hồn mình qua những trang thơ và sống cuộc đời đầy ý nghĩa, vì vậy cần tiếp nhận tác phẩm
bằng cả trái tim để khám phá sự phong phú về nội dung tình cảm cũng như chiều sâu ý nghĩa
của bài thơ. Có như vậy, những tác phẩm mới có thể mang tới những tình cảm chân thành,
khơi dậy trong lòng bạn đọc tình yêu dành cho cuộc đời, và bài thơ mới đi vào lòng người bởi
vẻ đẹp tâm hồn thanh cao của nhà thơ.
V. Vai trò của chi tiết, hình ảnh “ đắt” trong tp văn chương.
* MB tham khảo:
Bàn về chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương , nhà văn Maksim Gorky từng khẳng
định: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Văn chương muôn đời là thế, cái làm nên tầm vóc
của nhà văn không hẳn là quy mô tác phẩm mà chính là chi tiết nghệ thuật - yếu tố đôi khi
được coi là nhỏ nhặt, là vặt vãnh..Tác phẩm có tồn tại mãi mãi, người nghệ sĩ có khả năng làm
sống dậy cuộc đời trên trang sách, có in dấu ấn trong lòng bạn đọc, tất cả đều bắt đầu và dựa
vào những chi tiết nhỏ ấy. Đồng quan điểm đó, D cho rằng: “…”. Và chi tiết “…” trong tác
phẩm B của nhà văn A là chi tiết …………
* KB tham khảo:
Ý kiến của C đã khẳng định vai trò của chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương. Trong
tác phẩm văn học, nếu thiếu đi chi tiết, nhà văn sẽ không thể đúc kết nên tác phẩm. Và không
có một tác phẩm lớn nào mà chi tiết lại nhạt nhẽo, thiếu sức sống. Nhiều chi tiết trở thành
những điểm sáng thẩm mĩ của tác phẩm, có vị trị không thể thiếu trong sự phát triển của cốt
truyện vậy nên thiếu chi tiết là thiếu sự đặc tả, thiếu tính cụ thể, truyện sẽ trở nên hời hợt, thiếu
sức hấp dẫn. Chi tiết "......" trong tác phẩm A của B đã đạt được những giá trị ấy, neo đậu nơi
trái tim bạn đọc, đúng như Pauxtopxki khẳng định: “Chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm”
* Nhận định tham khảo
1. Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn ( Chi tiết là người tí hon mang nhiệm vụ khổng lồ ) … Chi
tiết nghệ thuật không chỉ là yếu tố cấu thành tác phẩm mà còn là nơi gửi gắm những quan
niệm nghệ thuật về con người của nhà văn, là nơi kí thác niềm ưu tư, trăn trở của nhà văn
trước cuộc đời.
* Giải thích:
Chi tiết (ở đây là chi tiết nghệ thuật): Là tiểu tiết, đơn vị cấu tạo nên tác phẩm, mang sức chứa
lớn về nội dung và nghệ thuật. Tuỳ theo sự thể hiện cụ thể mà chi tiết có khả năng giải thích,
tái hiện, biểu hiện…khiến hình tượng nghệ thuật trở nên cụ thể, gợi cảm và sống động khiến ý
đồ tư tưởng của nhà văn hiện hình rõ rệt, trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ tư tưởng của tác giả
trong tác phẩm.Những chi tiết được chọn lọc, gửi gắm mọi tư tưởng, tình cảm của nhà văn, là
sự dồn nén những điều mà nhà văn muốn nói.
– Nhà văn lớn: nhà văn có nhiều đóng góp về giá trị nội dung, tư tưởng cũng như nghệ thuật
qua những sáng tác của mình.
12
=> Ý kiến đã nhấn mạnh, đề cao tầm quan trọng của chi tiết: Những chi tiết được chọn lọc có
sức chứa lớn về mặt tư tưởng, tình cảm là một trong những yếu tố quyết định đến tầm vóc của
một nhà văn trong nền văn học.Đồng thời ý kiến cũng đặt ra yêu cầu đối với nhà văn trong quá
trình sáng tác.
* Bàn luận:
Chi tiết nghệ thuật là những yếu tố nhỏ lẻ của tác phẩm nhưng mang sức chứa lớn về
cảm xúc và tư tưởng. Sức chinh phục của hình tượng nghệ thuật là ở sự truyền cảm thi góp
phần quyết định tạo ra sức truyền cảm hấp dẫn lôi cuốn người đọc là nhờ chi tiết. Chi tiết nghệ
thuật gắn với quan niệm nghệ thuật và quan niệm nhân sinh của nhà văn. Đối với người đọc
khi nhận biết được các chi tiết đắt giá trong tác phẩm, chúng ta có thể làm sáng tỏ được ý
nghĩa của hình tượng nghệ thuật, tư tưởng chủ đề của tác phẩm và hiểu rõ ý đồ sáng tạo của
nhà văn.
Một chi tiết dù nhỏ song đặt trong mạch vận động của tác phẩm vẫn có vai trò riêng của
nó:
+ Chi tiết như những người tí hon mang nhiệm vụ khổng lồ. Nó góp phần làm nổi bật tính
cách, phẩm chất của nhân vật, thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện đồng thời thể hiện chủ đề
của tác phẩm, quan niệm thẩm mĩ, tư tưởng nghệ thuật, phong cách nghệ thuật của nhà văn, tạo
nên chiều sâu và sức hấp dẫn cho tác phẩm.
+ Quá trình đọc tác phẩm là sự giải mã các chi tiết trong tác phẩm. Chi tiết là “lát cắt trên
thân cây để thấy cả đời thảo mộc”. Một chi tiết dù nhỏ cũng có thể mang chứa thông điệp giúp
người đọc thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm, nắm bắt thông điệp của tác giả.
Những chi tiết đặc sắc còn tạo hứng thú cho người đọc trong quá trình tiếp nhận tác phẩm. Từ
đó góp phần bồi đắp tâm hồn cho người đọc.Tầm vóc tư tưởng, tài năng nghệ thuật của nhà
văn bộc lộ ngay trong chính cách nhà văn lựa chọn và sử dụng chi tiết trong tác phẩm.Một chi
tiết dù nhỏ cũng là kết quả lựa chọn, sắp xếp và mô tả của nhà văn, gắn với quá trình tư duy và
sáng tạo nghệ thuật của nhà văn khi hình thành một tác phẩm. Nó xuất hiện ở vị trí nào trong
mạch vận động của tác phẩm; nó được thể hiện ra sao hoàn toàn phụ thuộc vào con mắt nhìn,
khả năng thấu hiểu đời sống, thấu hiểu con người của nhà văn.

You might also like