Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kokia”
Đã cứu 11 nguồn và đánh dấu 0 nguồn là hỏng.) #IABot (v2.0.8 |
n →Liên kết ngoài: Persondata now moved to wikidata, removed: {{Persondata <!-- Metadata: see Wikipedia:Persondata. --> }} |
||
(Không hiển thị 14 phiên bản của 9 người dùng ở giữa) | |||
Dòng 14: | Dòng 14: | ||
| occupation = [[Ca sĩ]], [[người viết bài hát]], [[nhà sản xuất]] |
| occupation = [[Ca sĩ]], [[người viết bài hát]], [[nhà sản xuất]] |
||
| years_active = 1998-nay |
| years_active = 1998-nay |
||
| label = [[Pony Canyon]] (JP, 1998-2000)<br/> [[Victor Entertainment|Victor]] (JP, 2001-nay)<br>[[Kazé|Kazé/Wasabi]] (FR)<br>[[Universal Music Group|Universal]] (TW, 2011-nay)<ref>{{chú thích web | url=http://www.umusic.com.tw/Main.aspx?dest=ArtistMain&SuperCatId=1&catID=3&artist=301 | title=Kokia |work=[[Universal Music Group|UMusic.com.tw]] | language= |
| label = [[Pony Canyon]] (JP, 1998-2000)<br/> [[Victor Entertainment|Victor]] (JP, 2001-nay)<br>[[Kazé|Kazé/Wasabi]] (FR)<br>[[Universal Music Group|Universal]] (TW, 2011-nay)<ref>{{chú thích web | url=http://www.umusic.com.tw/Main.aspx?dest=ArtistMain&SuperCatId=1&catID=3&artist=301 | title=Kokia | work=[[Universal Music Group|UMusic.com.tw]] | language=zh | date=ngày 26 tháng 8 năm 2011 | access-date =ngày 30 tháng 8 năm 2011 | archive-date=2007-06-21 | archive-url=https://archive.today/20070621025027/http://www.umusic.com.tw/Main.aspx?dest=ArtistMain&SuperCatId=1&catID=3&artist=301 }}</ref> |
||
| associated_acts = [[Trịnh Tú Văn]] <br> [[Kawamura Ryūichi]] <br> [[Kanno Yoko]] <br> [[Itō Masumi]] |
| associated_acts = [[Trịnh Tú Văn]] <br> [[Kawamura Ryūichi]] <br> [[Kanno Yoko]] <br> [[Itō Masumi]] |
||
| website = [http://www.kokia.com Kokia Web] |
| website = [http://www.kokia.com Kokia Web] |
||
Dòng 20: | Dòng 20: | ||
}} |
}} |
||
{{Nihongo|'''Yoshida Akiko'''|吉田 亜紀子|Yoshida Akiko|hanviet=Cát Điền Á Kỉ Tử}}<ref>{{chú thích web | url=http://www.kokia.com/blog/50/ | title=冬の苗場にGo!! | work='Otonami' Music Translator Kokia's Blog | language= |
{{Nihongo|'''Yoshida Akiko'''|吉田 亜紀子|Yoshida Akiko|hanviet=Cát Điền Á Kỉ Tử}}<ref>{{chú thích web | url=http://www.kokia.com/blog/50/ | title=冬の苗場にGo!! | work='Otonami' Music Translator Kokia's Blog | language=ja | date=ngày 1 tháng 3 năm 2007 0-03-27 | ngày truy cập=2013-05-30 | archive-date=2007-11-24 | archive-url=https://web.archive.org/web/20071124075006/http://www.kokia.com/blog/50/ }}</ref><ref>{{chú thích web | url=http://big5.chinabroadcast.cn/gate/big5/gb.cri.cn/9964/2006/09/13/1525@1215474.htm | title=牛奶@咖啡"山東月"首站人氣高 遇瘋狂歌迷 | publisher=China Broadcast | language=zh | date=ngày 13 tháng 9 năm 2006 | access-date =ngày 18 tháng 3 năm 2010 | archive-date=2011-07-27 | archive-url=https://web.archive.org/web/20110727190927/http://big5.chinabroadcast.cn/gate/big5/gb.cri.cn/9964/2006/09/13/1525@1215474.htm }}</ref> là một [[ca sĩ – nhạc sĩ]] người Nhật, cô thường được gọi là '''Kokia''' (viết là '''KOKIA'''). Cô được biết đến nhờ vào bài {{nihongo|"Arigatō..."|ありがとう...||Cảm ơn}} (bài hát giữ vị trí số 1 tại [[Hồng Kông]] khi nó được cover bởi [[Trịnh Tú Văn]]) và "[[The Power of Smile/Remember the Kiss|The Power of Smile]]." Cô cũng được ký hợp đồng thu âm, phân phối các sản phẩm [[anime]]/game soundtracks, một trong những bản làm nên tên tuổi của cô là "[[Ai no Melody/Chōwa Oto (With Reflection)]]" trong phim [[Gin-iro no kami no Agito]], "[[Follow the Nightingale]]" trong game ''[[Tales of Innocence]]'', và "[[Tatta Hitotsu no Omoi]]" trong anime ''[[List of Gunslinger Girl episodes#Gunslinger Girl -Il Teatrino-|Gunslinger Girl: Il Teatrino]]''. |
||
Kokia thường biểu diễn ở châu Âu, với việc ca hát và phát hành âm nhạc thông qua Wasabi Records, một chi nhánh của [[Kazé]]. |
Kokia thường biểu diễn ở châu Âu, với việc ca hát và phát hành âm nhạc thông qua Wasabi Records, một chi nhánh của [[Kazé]]. |
||
Dòng 27: | Dòng 27: | ||
===Khi còn nhỏ=== |
===Khi còn nhỏ=== |
||
Kokia sinh năm 1976 và được mẹ nuôi lớn.<ref>{{chú thích web | url=http://www.kokia.com/20/2030/2_1.html | title=配信シングル3部作<Life Trilogy〜いのちの3部作〜>第2章、配信決定!! | publisher=Kokia Web | language= |
Kokia sinh năm 1976 và được mẹ nuôi lớn.<ref>{{chú thích web | url=http://www.kokia.com/20/2030/2_1.html | title=配信シングル3部作<Life Trilogy〜いのちの3部作〜>第2章、配信決定!! | publisher=Kokia Web | language=ja | access-date =ngày 20 tháng 3 năm 2010 | archive-date=2009-11-30 | archive-url=https://web.archive.org/web/20091130125132/http://www.kokia.com/20/2030/2_1.html }}</ref> Cô bắt đầu chơi Violon vào lúc 2 tuổi rưỡi, tuy nhiên, cô lại tỏ ra thích thú với cây Piano của gia đình hơn.<ref name="Habataki">{{chú thích web | url=http://www.habatakifukushi.jp/interview/int04.html | archive-url=https://web.archive.org/web/20050308114819/http://www.habatakifukushi.jp/interview/int04.html | archive-date=2005-03-08 | title=第4回 KOKIAさん | publisher=Shakai Fukushi Hōjin ([[:ja:社会福祉法人|社会福祉法人]]) | language=ja | access-date =ngày 8 tháng 3 năm 2010 |url-status=dead }}</ref> Thông thường, thay vì chơi với đồ chơi, Kokia thường chơi với cây Piano.<ref name="Livedoor">{{chú thích web | url=http://music.news.livedoor.com/person/biography?person_code=029865 | archive-url=https://web.archive.org/web/20110713215527/http://music.news.livedoor.com/person/biography?person_code=029865 | archive-date=2011-07-13 | title=KOKIA - バイオグラフィ - 音楽 - livedoor ニュース | publisher=Livedoor | language=ja | access-date =ngày 8 tháng 3 năm 2010 |url-status=dead }}</ref> Cô nhớ rằng, mình đã từng đặt những cuốn sách hình lên giá nhạc, và đàn theo mỗi khi âm nhạc xuất hiện trên màn hình.<ref name="Habataki"/> |
||
Khi lên 10, Kokia ra nước ngoài với chị là [[Yoshida Kyoko|Kyoko]] để học trường Âm nhạc mùa hè (cô thực hiện chuyến đi lần 2 vào năm 14 tuổi).<ref name="Livedoor"/> Vào trung học, cô học thanh nhạc <ref name="Kokiaofficial">{{chú thích web | url=http://www.kokia.com/30/3010/ | title=プロフィール | publisher=Kokia Web | language= |
Khi lên 10, Kokia ra nước ngoài với chị là [[Yoshida Kyoko|Kyoko]] để học trường Âm nhạc mùa hè (cô thực hiện chuyến đi lần 2 vào năm 14 tuổi).<ref name="Livedoor"/> Vào trung học, cô học thanh nhạc <ref name="Kokiaofficial">{{chú thích web | url=http://www.kokia.com/30/3010/ | title=プロフィール | publisher=Kokia Web | language=ja | access-date =ngày 8 tháng 3 năm 2010 | archive-date=2010-02-05 | archive-url=https://web.archive.org/web/20100205081608/http://www.kokia.com/30/3010/ }}</ref> và opera, và theo đuổi chuyên môn opera tại [[Trường âm nhạc Toho Gakuen]].<ref name="CDJournalProf">{{chú thích web | url=http://artist.cdjournal.com/a/kokia/110133 | title=アーティスト・プローフィル | publisher=CDJournal | language=ja | access-date =ngày 8 tháng 3 năm 2010}}</ref><ref name="Jame-private">{{chú thích web | url=http://www.jame-world.com/us/articles-4694-private-interview-with-kokia.html | title=Private Interview with KOKIA | publisher=JaME World |date=ngày 20 tháng 5 năm 2008 | access-date =ngày 8 tháng 3 năm 2010}}</ref> |
||
Trong thời gian đại học, một người bạn đã đưa bản thu âm demo của Kokia cho những nhà thu âm.<ref name="Habataki"/> Sau đó Kokia đã được ký hợp đồng với [[Pony Canyon]], và cô xuất hiện trên thị trường vào năm 1998 khi vẫn còn là sinh viên.<ref name="CDJournalProf"/> Cô tạo ra nghệ danh của mình bằng việc đảo các âm tiết trong họ của cô Akiko.<ref name="Habataki"/> Bài hát phát hành đầu tiên của cô là "For Little Tail," đã được sử dụng như bài hát mở đầu cho game [[Tail Concerto]] (dù nó đã được phát hành như bản track phụ trong album single "Road to Glory").<ref>{{cite video game | title = [[Tail Concerto]] | developer = [[CyberConnect2]] | publisher = [[Bandai]] | date = ngày 30 tháng 6 năm 1998 | platform = [[PlayStation]] | version = 1.0 | language= |
Trong thời gian đại học, một người bạn đã đưa bản thu âm demo của Kokia cho những nhà thu âm.<ref name="Habataki"/> Sau đó Kokia đã được ký hợp đồng với [[Pony Canyon]], và cô xuất hiện trên thị trường vào năm 1998 khi vẫn còn là sinh viên.<ref name="CDJournalProf"/> Cô tạo ra nghệ danh của mình bằng việc đảo các âm tiết trong họ của cô Akiko.<ref name="Habataki"/> Bài hát phát hành đầu tiên của cô là "For Little Tail," đã được sử dụng như bài hát mở đầu cho game [[Tail Concerto]] (dù nó đã được phát hành như bản track phụ trong album single "Road to Glory").<ref>{{cite video game | title = [[Tail Concerto]] | developer = [[CyberConnect2]] | publisher = [[Bandai]] | date = ngày 30 tháng 6 năm 1998 | platform = [[PlayStation]] | version = 1.0 | language=ja}}</ref> Một số ít single đầu tiên của cô không được sáng tác bới cô, thay vào đó là do [[Hinata Toshifumi]] và[[Kanno Yoko]] viết.<ref name="TsutayaProf"/> Sau 4 single, cô cho phát hành album chính thức của mình, đó là ''[[Songbird (Kokia album)|Songbird]]'' vào năm 1999.<ref name="TsutayaProf">{{chú thích web | url=http://www.tsutaya.co.jp/artist/00064902.html | title=KOKIA アーティストページ - TSUTAYA online | publisher=Tsutaya | language=ja | access-date=ngày 8 tháng 3 năm 2010 | archive-date=2013-04-24 | archive-url=https://web.archive.org/web/20130424052937/http://www.tsutaya.co.jp/artist/00064902.html | url-status=dead }}</ref> Không như những đĩa đơn khác sau đó, đa phần là những bài hát do chính Kokia viết.<ref name="TsutayaProf"/> |
||
Không bản phát hành nào của cô được xếp hạng cao,<ref name="OriRef">{{chú thích web | title=オリコンランキング情報サービス「you大樹」 | url=http://ranking.oricon.co.jp | work=[[Oricon]] | |
Không bản phát hành nào của cô được xếp hạng cao,<ref name="OriRef">{{chú thích web | title=オリコンランキング情報サービス「you大樹」 | url=http://ranking.oricon.co.jp | work=[[Oricon]] | access-date =ngày 8 tháng 3 năm 2010}} (subscription only)</ref> tuy nhiên, single dẫn đầu của cô từ Album, {{nihongo|"Arigatō..."|ありがとう...||Cảm ơn}}, đã thành công rực rỡ tại [[Hồng Kông]]. NÓ được trao giải 3 năm 1999 tại Giải thưởng nhạc pop quốc tế Hồng Kông (香港國際流行音樂大赏).<ref name="CDJournalProf"/> Ca sĩ Hồng Kông [[Trịnh Tú Văn]] đã cover bài hát và phát hành nó và đặc tên cho album của mình "Arigatō" vào tháng 10 năm 1999.<ref>{{chú thích web | url=http://itunes.apple.com/us/album/arigatou/id278579523?ign-mpt=uo%3D4 | title=Arigatou by Sammi Cheng | publisher=iTunes | access-date =ngày 8 tháng 3 năm 2010}}</ref> Và bài hát trở thành Hit tại thành phố Hồng Kông.<ref name="Livedoor"/> |
||
===Victor Entertainment=== |
===Victor Entertainment=== |
||
Sau khi tung ra album đầu tiên của mình, kokia đã không tiếp tục các sản phẩm âm nhạc với [[Pony Canyon]].<ref name="TsutayaProf"/> Sự phát triển album mới của cô sau đó là 5 bài hát dành cho [[Luna Sea]] giọng ca của nhà sản xuất [[Kawamura Ryūichi]] ЯKS, vào năm 2000.<ref>{{chú thích web | url=http://www.neowing.co.jp/detailview.html?KEY=VICL-60700 | title=<nowiki>[CD] 彼方まで / RKS</nowiki> |work=Neowing | language= |
Sau khi tung ra album đầu tiên của mình, kokia đã không tiếp tục các sản phẩm âm nhạc với [[Pony Canyon]].<ref name="TsutayaProf"/> Sự phát triển album mới của cô sau đó là 5 bài hát dành cho [[Luna Sea]] giọng ca của nhà sản xuất [[Kawamura Ryūichi]] ЯKS, vào năm 2000.<ref>{{chú thích web | url=http://www.neowing.co.jp/detailview.html?KEY=VICL-60700 | title=<nowiki>[CD] 彼方まで / RKS</nowiki> |work=Neowing | language=ja | access-date =ngày 8 tháng 3 năm 2010}}</ref> Album được phát hành dưới trướng của [[Victor Entertainment]]. Năm 2001, cô trở lại công chúng như là thành viên của Victor, và phát hành 3 single tiếp theo của mình.<ref name="CDJournalProf"/> |
||
Kokia tiếp tục thành công tại châu Á, với các chiến lược chiêu thị đầu tư cho âm nhạc rộng rãi khắp khu vực.<ref name="Kokiaofficial"/> Năm 2001, cô trình diễn tại hai buổi hòa nhạc cao cấp ở Trung Quốc: một là buổi hòa nhạc chống lại chất gây nghiện thu hút 30.000 người tham gia cùng với sự tham gia của [[Tứ đại thiên vương (âm nhạc)|Tứ đại thiên vương]] ([[Trương Học Hữu]], [[Lưu Đức Hoa]], [[Quách Phú Thành]] và [[Lê Minh]]),<ref name="Kokiaofficial"/><ref name="Drugabuse">{{chú thích web | url=http://www.rthk.org.hk/press/chi/20011117_66_3913.html | title=年輕偶像參與港台「禁毒滅罪耀北區」音樂會 發揚正義最大信息 呼籲大眾切勿以身試法 |work=RTHK | language= |
Kokia tiếp tục thành công tại châu Á, với các chiến lược chiêu thị đầu tư cho âm nhạc rộng rãi khắp khu vực.<ref name="Kokiaofficial"/> Năm 2001, cô trình diễn tại hai buổi hòa nhạc cao cấp ở Trung Quốc: một là buổi hòa nhạc chống lại chất gây nghiện thu hút 30.000 người tham gia cùng với sự tham gia của [[Tứ đại thiên vương (âm nhạc)|Tứ đại thiên vương]] ([[Trương Học Hữu]], [[Lưu Đức Hoa]], [[Quách Phú Thành]] và [[Lê Minh]]),<ref name="Kokiaofficial"/><ref name="Drugabuse">{{chú thích web | url=http://www.rthk.org.hk/press/chi/20011117_66_3913.html | title=年輕偶像參與港台「禁毒滅罪耀北區」音樂會 發揚正義最大信息 呼籲大眾切勿以身試法 | work=RTHK | language=zh | date=ngày 17 tháng 11 năm 2001 | access-date=ngày 8 tháng 3 năm 2010 | archive-date=2012-05-02 | archive-url=https://www.webcitation.org/67N4Yy2ag?url=http://www.rthk.org.hk/press/chi/20011117_66_3913.html | url-status=dead }}</ref> và tại một buổi hòa nhạc với hơn 120.000 người vào năm 2001 để chào mừng năm mới trong sự kiện countdown 2001 tại [[Đài Loan]].<ref name="Kokiaofficial"/> Vào tháng 1 năm 2002, Kokia phát hành album thứ hai của mình với tên gọi ''[[Trip Trip]]'', album đầu tiên mà chính cô đầu tư phát triển sản xuất.<ref name="Jame-private"/> Giống như các album debut của cô, không có bản thu âm nào đạt được hạng cao tại Nhật Bản.<ref name="OriRef"/> |
||
Tuy nhiên, năm 2003, Kokia lần đầu tiên gặt hái được sự chú ý của dư luận. Single của cô với tên gọi "[[Kawaranai Koto (Since 1976)]]" được sử dụng như là bài hát chính của [[drama]] [[:ja:愛しき者へ|Itoshiki Mono e]],<ref name="Kokiaofficial"/> single đã đưa Kokia lọt top 50 bảng xếp hạng.<ref name="OriRef"/> Tuy vậy, bản HIT lớn nhất của cô lại là "[[The Power of Smile/Remember the Kiss]]." Nó đã gặt hái được tiếng tăm sau khi được sử dụng trong quảng cáo của sản phẩm dưỡng tóc [[Kao Corporation|Kao]].<ref name="CDJournalProf"/> Kokia sau đó đã được đề nghị trình diễn trong một chương trình âm nhạc nổi tiếng [[Music Station]].<ref name="Kokiaofficial"/> Single đã phá top 20 tại Nhật Bản <ref name="OriRef"/> và được chứng nhận bản GOLD bởi RIAJ.<ref>{{chú thích web | url=http://www.riaj.or.jp/data/others/gold/200310.html | title=ゴールド等認定作品一覧 2003年10月 |work=RIAJ | language= |
Tuy nhiên, năm 2003, Kokia lần đầu tiên gặt hái được sự chú ý của dư luận. Single của cô với tên gọi "[[Kawaranai Koto (Since 1976)]]" được sử dụng như là bài hát chính của [[drama]] [[:ja:愛しき者へ|Itoshiki Mono e]],<ref name="Kokiaofficial"/> single đã đưa Kokia lọt top 50 bảng xếp hạng.<ref name="OriRef"/> Tuy vậy, bản HIT lớn nhất của cô lại là "[[The Power of Smile/Remember the Kiss]]." Nó đã gặt hái được tiếng tăm sau khi được sử dụng trong quảng cáo của sản phẩm dưỡng tóc [[Kao Corporation|Kao]].<ref name="CDJournalProf"/> Kokia sau đó đã được đề nghị trình diễn trong một chương trình âm nhạc nổi tiếng [[Music Station]].<ref name="Kokiaofficial"/> Single đã phá top 20 tại Nhật Bản <ref name="OriRef"/> và được chứng nhận bản GOLD bởi RIAJ.<ref>{{chú thích web | url=http://www.riaj.or.jp/data/others/gold/200310.html | title=ゴールド等認定作品一覧 2003年10月 |work=RIAJ | language=ja |access-date =ngày 8 tháng 3 năm 2010}}</ref> Album tiếp theo, ''[[Remember Me (Kokia album)|Remember Me]]'', cũng nằm trong top 20 và bán trên 45.000 bản.<ref name="OriRef"/> |
||
Những bài hát trong lúc cô còn ở Pony Canyon-era như "I Catch a Cold" và {{nihongo|"Shiroi Yuki"|白い雪||Tuyết trắng}} đã được sử dụng trong soundtrack cho bộ drama Trung Quốc tại vịnh Cá Heo vào 2003.<ref>{{chú thích web | url=http://www.yesasia.com/global/at-the-dolphin-bay-original-soundtrack/1002839469-0-0-0-en/info.html | title=At The Dolphin Bay Original Soundtrack |work=YesAsia | |
Những bài hát trong lúc cô còn ở Pony Canyon-era như "I Catch a Cold" và {{nihongo|"Shiroi Yuki"|白い雪||Tuyết trắng}} đã được sử dụng trong soundtrack cho bộ drama Trung Quốc tại vịnh Cá Heo vào 2003.<ref>{{chú thích web | url=http://www.yesasia.com/global/at-the-dolphin-bay-original-soundtrack/1002839469-0-0-0-en/info.html | title=At The Dolphin Bay Original Soundtrack |work=YesAsia |access-date =ngày 8 tháng 3 năm 2010}}</ref> Đây là bài hát đánh dấu sự kết thúc của sự nghiệp tham gia thị trường âm nhạc Trung Quốc của cô. |
||
Album thứ tư của Kokai ''[[Uta ga Chikara]]'' (phát hành năm 2004) cũng sớm đạt được thành công khi bán được 20.000 bản.<ref name="OriRef"/> Single lớn nhất từ album này là "[[Yume ga Chikara]]," đã được sử dụng như là bài hát cổ vũ cho đội tuyển Nhật Bản tại [[Thế vận hội Mùa hè 2004]].<ref name="Kokiaofficial"/> |
Album thứ tư của Kokai ''[[Uta ga Chikara]]'' (phát hành năm 2004) cũng sớm đạt được thành công khi bán được 20.000 bản.<ref name="OriRef"/> Single lớn nhất từ album này là "[[Yume ga Chikara]]," đã được sử dụng như là bài hát cổ vũ cho đội tuyển Nhật Bản tại [[Thế vận hội Mùa hè 2004]].<ref name="Kokiaofficial"/> |
||
Trong khi Kokia bắt đầu phát triển sản phẩm âm nhạc của mình với game và anime ngay khi cô debut, cũng phải đến năm thi bài hát chủ đề của cô mới bắt đầu thành công. Single của cô mang tên "[[Ai no Melody/Chōwa Oto (With Reflection)]]" đã được sử dụng như là 2 bài hát chủ để của phim anime [[Gin-iro no kami no Agito]], và nó vươn lên vị trí thứ 30 trên |
Trong khi Kokia bắt đầu phát triển sản phẩm âm nhạc của mình với game và anime ngay khi cô debut, cũng phải đến năm thi bài hát chủ đề của cô mới bắt đầu thành công. Single của cô mang tên "[[Ai no Melody/Chōwa Oto (With Reflection)]]" đã được sử dụng như là 2 bài hát chủ để của phim anime [[Gin-iro no kami no Agito]], và nó vươn lên vị trí thứ 30 trên bảng xếp hạng đĩa đơn Oricon.<ref name="OriRef"/> |
||
Vào tháng 2 năm 2006, Kokia cho phát hành bản hit đình đám nhất của cô, ''[[Pearl: The Best Collection]]'', và bộ sưu tập video clips thành công, ''[[Jewel: The Best Video Collection]]''.<ref name="JVCdisc">{{chú thích web | url=http://www.jvcmusic.co.jp/-/Discographylist/A012051.html | title=KOKIA|ディスコグラフィー|@Victor Entertainment |work=Victor Entertainment | language= |
Vào tháng 2 năm 2006, Kokia cho phát hành bản hit đình đám nhất của cô, ''[[Pearl: The Best Collection]]'', và bộ sưu tập video clips thành công, ''[[Jewel: The Best Video Collection]]''.<ref name="JVCdisc">{{chú thích web | url=http://www.jvcmusic.co.jp/-/Discographylist/A012051.html | title=KOKIA|ディスコグラフィー|@Victor Entertainment |work=Victor Entertainment | language=ja |access-date =ngày 8 tháng 3 năm 2010}}</ref> Bộ sưu tập các bài hát hay nhất đã vươn lên vị trí 19 trong bảng xếp hạng các album.<ref name="OriRef"/> |
||
===Anco & Co., France=== |
===Anco & Co., France=== |
||
Dòng 55: | Dòng 55: | ||
Từ năm 2006 trở đi, Kokia bắt đầu làm việc tại thị trường chuâ Âu, cùng lúc đó, cô phát triển khả năng điều hành việc phát triển các sản phẩm âm nhạc tốt hơn. Vào tháng 1, cô tiến hành chương trình âm nhạc đầu tiên của mình tại [[Paris]], và trình diễn tại triển lãm Công nghiệp thương mại âm nhạc [[Midem]].<ref name="Kokiaofficial"/> Sản phẩm ''Pearl'' được ra mắt một tháng trước khi phiên bản tiếng Nhật được trình làng tại pháp và Tây Ban Nha.<ref name="Kokiaofficial"/> |
Từ năm 2006 trở đi, Kokia bắt đầu làm việc tại thị trường chuâ Âu, cùng lúc đó, cô phát triển khả năng điều hành việc phát triển các sản phẩm âm nhạc tốt hơn. Vào tháng 1, cô tiến hành chương trình âm nhạc đầu tiên của mình tại [[Paris]], và trình diễn tại triển lãm Công nghiệp thương mại âm nhạc [[Midem]].<ref name="Kokiaofficial"/> Sản phẩm ''Pearl'' được ra mắt một tháng trước khi phiên bản tiếng Nhật được trình làng tại pháp và Tây Ban Nha.<ref name="Kokiaofficial"/> |
||
Vào tháng 6 năm 2006, Kokia quyết định thiết lập công ty sản xuất của mình, được tách ra từ Victor Entertainment, và được gọi là Anco & Co., sau khi cô khát khao giành được quyền kiểm soát việc phát triển sản phẩm của mình..<ref name="Kokiaofficial"/> Vào tháng 12, cô trở lại thị trường pháp với nhà phân phối ấn phẩm anime [http://www.wasabi-records.fr/ Wasabi Records], releasing her 5th album ''[[Aigakikoeru: Listen for the Love]]'', 6 tháng trước khi bản tiếng Nhật được phát hành.<ref>{{chú thích web | url=http://www.kaze.fr/wasabi/index_boutique_fiche_famille.php?f=16a96c4d7bf1f3d9126ba8d7dfa8a573&typeproduit=4 | title=KOKIA - ai ga kikoeru | work=Wasabi Records | language= |
Vào tháng 6 năm 2006, Kokia quyết định thiết lập công ty sản xuất của mình, được tách ra từ Victor Entertainment, và được gọi là Anco & Co., sau khi cô khát khao giành được quyền kiểm soát việc phát triển sản phẩm của mình..<ref name="Kokiaofficial"/> Vào tháng 12, cô trở lại thị trường pháp với nhà phân phối ấn phẩm anime [http://www.wasabi-records.fr/ Wasabi Records], releasing her 5th album ''[[Aigakikoeru: Listen for the Love]]'', 6 tháng trước khi bản tiếng Nhật được phát hành.<ref>{{chú thích web | url=http://www.kaze.fr/wasabi/index_boutique_fiche_famille.php?f=16a96c4d7bf1f3d9126ba8d7dfa8a573&typeproduit=4 | title=KOKIA - ai ga kikoeru | work=Wasabi Records | language=fr | access-date =ngày 8 tháng 3 năm 2010 | archive-date=2011-07-23 | archive-url=https://web.archive.org/web/20110723153837/http://www.kaze.fr/wasabi/index_boutique_fiche_famille.php?f=16a96c4d7bf1f3d9126ba8d7dfa8a573&typeproduit=4 |url-status=dead }}</ref> |
||
Vào tháng 12 năm 2007, Kokia giành được thành công thứ hai trong việc phát hành đĩa đơn về game/anime của mình, với "[[Follow the Nightingale]]." Bản nhạc đã được dùng cho game [[Tales of Innocence]], và đạt được hạng 30 trên Oricon.<ref name="OriRef"/> |
Vào tháng 12 năm 2007, Kokia giành được thành công thứ hai trong việc phát hành đĩa đơn về game/anime của mình, với "[[Follow the Nightingale]]." Bản nhạc đã được dùng cho game [[Tales of Innocence]], và đạt được hạng 30 trên Oricon.<ref name="OriRef"/> |
||
Dòng 61: | Dòng 61: | ||
Khả năng điều khiển sáng tạo tốt hơn của Kokia cho phép âm nhạc của cô được phát hành ở nhiệp độ cao hơn. Năm 2008, Kokia phát hành 3 album: tân cổ điển ''[[The Voice (Kokia album)|The Voice]]'', album nền của [[Cộng hòa Ireland|Ireland]] ''[[Fairy Dance: Kokia Meets Ireland|Fairy Dance]]'' và album Giáng sinh đầu tiên của mình ''[[Christmas Gift (album)|Christmas Gift]]''.<ref name="JVCdisc"/> Năm 2009, Kokia phát hành 2 album cùng lúc (''[[Kokia Infinity Akiko: Balance]]'' và ''[[Akiko Infinity Kokia: Balance]]'') để kỉ niệm 10 năm ca hát của mình.<ref name="Kokiaofficial"/> Cô cũng tổ chức tour vòng quan thế giới đầu tiên với việc trình bày các ca khúc bằng tiếng [[Nhật Bản|Nhật]], [[Pháp]], [[Cộng hòa Ireland|Ireland]], [[Ba Lan]], [[Bỉ]] và [[Đức]].<ref name="Kokiaofficial"/> |
Khả năng điều khiển sáng tạo tốt hơn của Kokia cho phép âm nhạc của cô được phát hành ở nhiệp độ cao hơn. Năm 2008, Kokia phát hành 3 album: tân cổ điển ''[[The Voice (Kokia album)|The Voice]]'', album nền của [[Cộng hòa Ireland|Ireland]] ''[[Fairy Dance: Kokia Meets Ireland|Fairy Dance]]'' và album Giáng sinh đầu tiên của mình ''[[Christmas Gift (album)|Christmas Gift]]''.<ref name="JVCdisc"/> Năm 2009, Kokia phát hành 2 album cùng lúc (''[[Kokia Infinity Akiko: Balance]]'' và ''[[Akiko Infinity Kokia: Balance]]'') để kỉ niệm 10 năm ca hát của mình.<ref name="Kokiaofficial"/> Cô cũng tổ chức tour vòng quan thế giới đầu tiên với việc trình bày các ca khúc bằng tiếng [[Nhật Bản|Nhật]], [[Pháp]], [[Cộng hòa Ireland|Ireland]], [[Ba Lan]], [[Bỉ]] và [[Đức]].<ref name="Kokiaofficial"/> |
||
Với album lần thứ 11, ''[[Real World (album)|Real World]]'', cô đã vòng quang [[Tunisia]] và sa mạc [[Sa mạc Sahara|Sahara]] để tìm cảm hứng.<ref>{{chú thích web | url=http://news.livedoor.com/article/detail/4592802/ | title=KOKIA、サハラ砂漠に感謝と感動を学ぶ |work=Barks | language= |
Với album lần thứ 11, ''[[Real World (album)|Real World]]'', cô đã vòng quang [[Tunisia]] và sa mạc [[Sa mạc Sahara|Sahara]] để tìm cảm hứng.<ref>{{chú thích web | url=http://news.livedoor.com/article/detail/4592802/ | title=KOKIA、サハラ砂漠に感謝と感動を学ぶ |work=Barks | language=ja |date = ngày 7 tháng 2 năm 2010 |access-date =ngày 8 tháng 3 năm 2010}} {{Dead link|date=October 2010|bot=H3llBot}}</ref> |
||
==Nghệ thuật== |
==Nghệ thuật== |
||
===Giọng hát=== |
===Giọng hát=== |
||
Giọng hát của cô thường được khen tặng bởi các nhà phê bình cho chất giọng trong trẻo sáng sủa.<ref>{{chú thích web | url=http://listen.jp/store/diskreview_6117.htm | title=新譜レビュー > KOKIA/歌がチカラ | work=Listen.jp | language= |
Giọng hát của cô thường được khen tặng bởi các nhà phê bình cho chất giọng trong trẻo sáng sủa.<ref>{{chú thích web | url=http://listen.jp/store/diskreview_6117.htm | title=新譜レビュー > KOKIA/歌がチカラ | work=Listen.jp | language=ja | access-date =ngày 8 tháng 3 năm 2010 | archive-date=2008-12-26 | archive-url=https://web.archive.org/web/20081226005801/http://listen.jp/store/diskreview_6117.htm }}</ref><ref>{{chú thích web | title=商品の説明 - Amazon.co.jp | url=http://www.amazon.co.jp/dp/B00005FQGW | work=[[Shunta Tanizaki]] | access-date = ngày 9 tháng 3 năm 2010}}</ref><ref>{{chú thích web | title=試聴記コメント/ガイドコメント | url=http://artist.cdjournal.com/d/songbird/3199051558 | work=[[CDJournal]] | access-date = ngày 9 tháng 3 năm 2010}}</ref> Nó đã diễn tả bởi Key trong [[JaME World]] như là dễ hỏng và nghe rõ cả tiếng thở.<ref>{{chú thích web | url=http://www.jame-world.com/us/articles-4811-kokia-trip-trip.html | title= KOKIA - trip trip |work=JaME World |access-date =ngày 8 tháng 3 năm 2010}}</ref> |
||
Năm 2004, trên chương trình truyền hình TV [[Daimei no Nai Ongaku-kai 21]] (題名のない音楽会21), Kokia đã thử cố gắng phá vỡ [[Sách kỉ lục Guinness|Kỉ lục Guinness Thế giới]] cho việc giữ nốt cao lâu nhất. Việc trình diễn khả năng cappella của cô [['O Sole Mio]], cô đã giữ nốt trong 29.5 giây, tuy nhiên đã không thể phá vỡ kỉ lục.<ref>[[Daimei no Nai Ongaku-kai 21]] (題名のない音楽会21). [[TV Asahi]]. Tokyo, 2004-07-18. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.</ref> |
Năm 2004, trên chương trình truyền hình TV [[Daimei no Nai Ongaku-kai 21]] (題名のない音楽会21), Kokia đã thử cố gắng phá vỡ [[Sách kỉ lục Guinness|Kỉ lục Guinness Thế giới]] cho việc giữ nốt cao lâu nhất. Việc trình diễn khả năng cappella của cô [['O Sole Mio]], cô đã giữ nốt trong 29.5 giây, tuy nhiên đã không thể phá vỡ kỉ lục.<ref>[[Daimei no Nai Ongaku-kai 21]] (題名のない音楽会21). [[TV Asahi]]. Tokyo, 2004-07-18. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.</ref> |
||
Dòng 74: | Dòng 74: | ||
Kokia viết một lượng lớn tác phẩm của mình bằng tiếng Nhật, một số bằng tiếng Anh hoặc một phần tiếng Anh (như "The Rule of the Universe," "Say Hi!!", and "So Sad So Bad."). Cô mở rộng hợp tác trong nhiều ngôn ngữ khác nhau như tiếng Ý ("Il Mare dei Suoni," "Insonnia.") và tiếng Irish ("Taimse im' chodhadh" và "Siuil a Run" từ album tiếng Irish của cô ''[[Fairy Dance: Kokia Meets Ireland|Fairy Dance]]''). |
Kokia viết một lượng lớn tác phẩm của mình bằng tiếng Nhật, một số bằng tiếng Anh hoặc một phần tiếng Anh (như "The Rule of the Universe," "Say Hi!!", and "So Sad So Bad."). Cô mở rộng hợp tác trong nhiều ngôn ngữ khác nhau như tiếng Ý ("Il Mare dei Suoni," "Insonnia.") và tiếng Irish ("Taimse im' chodhadh" và "Siuil a Run" từ album tiếng Irish của cô ''[[Fairy Dance: Kokia Meets Ireland|Fairy Dance]]''). |
||
Các bài hát hợp tác như {{nihongo|"Chōwa Oto"|調和 oto|Harmony, Sound}} và "[[Follow the Nightingale]]," Kokia viết lời cho giai điệu. Cho cả hai bài đó, cô thường lựa chọn các ký tự đặc trưng được đảo ngược (như lời "nimiunooto denzush," khi đảo ngược sẽ cho {{nihongo|"Oto no umi ni shizunde"|音の海に 沈んで|chìm vào âm thanh của biển}}).<ref name="CDJ">{{chú thích web | url=http://www.cdjapan.co.jp/jpop/essentials/kokia/index.html | title= KOKIA Special Feature |work=CDJapan |year=2006 | |
Các bài hát hợp tác như {{nihongo|"Chōwa Oto"|調和 oto|Harmony, Sound}} và "[[Follow the Nightingale]]," Kokia viết lời cho giai điệu. Cho cả hai bài đó, cô thường lựa chọn các ký tự đặc trưng được đảo ngược (như lời "nimiunooto denzush," khi đảo ngược sẽ cho {{nihongo|"Oto no umi ni shizunde"|音の海に 沈んで|chìm vào âm thanh của biển}}).<ref name="CDJ">{{chú thích web | url=http://www.cdjapan.co.jp/jpop/essentials/kokia/index.html | title= KOKIA Special Feature |work=CDJapan |year=2006 |access-date =ngày 8 tháng 3 năm 2010}}</ref> Tại "Chōwa Oto", Kokia cũng đã chia nốt nhạc (các số 3 25 15 21 23 và 1) tương xứng với các ký tự của bản chữ tiếng Anh [[English alphabet]] (1=A, 26=Z) để viết lên tên bài hát [[wāpuro rōmaji]] (C Y O U W A).<ref name="CDJ"/> |
||
Nhà phê bình âm nhạc [[Tomisawa Issei]] xem Kokia là một trong những nhạc sĩ yêu thích của ông.<ref>[[M no Mokushiroku]] (Mの黙示録). [[TV Asahi]]. Tokyo, 2001-12-23. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.</ref> |
Nhà phê bình âm nhạc [[Tomisawa Issei]] xem Kokia là một trong những nhạc sĩ yêu thích của ông.<ref>[[M no Mokushiroku]] (Mの黙示録). [[TV Asahi]]. Tokyo, 2001-12-23. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.</ref> |
||
==Cuộc sống cá nhân== |
==Cuộc sống cá nhân== |
||
Nghệ sĩ Violin [[Yoshida Kyoko]] là chị của Kokia,{{citation needed|date=March 2010}} và cũng tham gia vào [[Trường âm nhạc Toho Gakuen]].<ref>{{chú thích web | url=http://www.kyokoyoshida.com/profile/index.html | title=ヴァイオリニスト 吉田恭子 オフィシャルサイト:Profile |work=Kyoko Yoshida | language= |
Nghệ sĩ Violin [[Yoshida Kyoko]] là chị của Kokia,{{citation needed|date=March 2010}} và cũng tham gia vào [[Trường âm nhạc Toho Gakuen]].<ref>{{chú thích web | url=http://www.kyokoyoshida.com/profile/index.html | title=ヴァイオリニスト 吉田恭子 オフィシャルサイト:Profile |work=Kyoko Yoshida | language=ja |access-date = ngày 28 tháng 3 năm 2010}}</ref> |
||
Ông của Kokia là nhà quản lý công ty đóng tàu của Nhật Bản.<ref>{{chú thích web | url=http://www.kokia.com/blog/602006/ | title=+++ お船の歌 +++ | work='Otonami' Music Translator Kokia's Blog | language= |
Ông của Kokia là nhà quản lý công ty đóng tàu của Nhật Bản.<ref>{{chú thích web | url=http://www.kokia.com/blog/602006/ | title=+++ お船の歌 +++ | work='Otonami' Music Translator Kokia's Blog | language=ja | date=ngày 10 tháng 7 năm 2006 | access-date =ngày 27 tháng 3 năm 2010 | archive-date=2008-01-21 | archive-url=https://web.archive.org/web/20080121203204/http://www.kokia.com/blog/602006/ }}</ref> Cô đã sản xuất một ấn phẩm phim ngắn là {{nihongo|"Ojii-chan no Tulip"|おじいちゃんのチューリップ|Granddad's Tulips}} và bài hát (Grandfather's Ship) trong chính danh dự của ông.<ref name="Jame-exclusive">{{chú thích web | url=http://www.jame-world.com/us/articles-52150-exclusive-interview-and-video-message-from-kokia.html | title=Exclusive Interview and Video Message from KOKIA | publisher=JaME World |date = ngày 18 tháng 7 năm 2009 | access-date =ngày 8 tháng 3 năm 2010}}</ref><ref>{{chú thích web | url=http://www.kokia.com/blog/50/ | title=おじいちゃんのチューリップ観た? | work='Otonami' Music Translator Kokia's Blog | language=ja | date=ngày 2 tháng 7 năm 2007 | access-date =ngày 27 tháng 3 năm 2010 | archive-date=2007-11-24 | archive-url=https://web.archive.org/web/20071124075006/http://www.kokia.com/blog/50/ }}</ref> |
||
Kokia được nuôi lớn trong gia đình Thiên chúa giáo, và tham gia vào các lễ mét mỗi Chủ nhật từ khi còn bé.<ref>{{chú thích web | url=http://www.kokia.com/blog/602006/ | title=★ HAPPY NIGHT 4 ★ | work='Otonami' Music Translator Kokia's Blog | language= |
Kokia được nuôi lớn trong gia đình Thiên chúa giáo, và tham gia vào các lễ mét mỗi Chủ nhật từ khi còn bé.<ref>{{chú thích web | url=http://www.kokia.com/blog/602006/ | title=★ HAPPY NIGHT 4 ★ | work='Otonami' Music Translator Kokia's Blog | language=ja | date=ngày 17 tháng 6 năm 2006 | access-date =ngày 27 tháng 3 năm 2010 | archive-date=2008-01-21 | archive-url=https://web.archive.org/web/20080121203204/http://www.kokia.com/blog/602006/ }}</ref> Cô viết khá nhiều bài hát về Chúa, như "Why Do I Sing?," "Everlasting," {{nihongo|"Inori ni mo Nita Utsukushii Sekai"|祈りにも似た美しい世界}} và {{nihongo|"Sei Naru Yoru ni"|聖なる夜に|In the Holy Night}}. |
||
Kokia làm việc theo chủ nghĩa Nhân đạo. Tại trường, cô là thành viên của hội những người tình nguyện và cố gắng giúp đỡ những người tàn tật, người già và các nạn nhân [[HIV/AIDS|AIDS]].<ref name="Habataki"/> Cô cũng hoạt động nghệ thuật tại các chương trình ca nhạc nhằm ngăn chặn chất gây nghiện,<ref name="Drugabuse"/> ủng hộ tổ chức Phúc lợi xã hội Nhật Bản (社会福祉法人),<ref name="Habataki"/> và phát hành nhiều đĩa đơn dành cho nạn nhân của trận động đất [[2007 Chūetsu offshore earthquake|Động đất Niigata năm 2007]].<ref name="Kokiaofficial"/> Kokia cũng cảm thấy rất đồng cảm với nạn nhân của vụ tấn công 11 tháng 9 tại Hoa |
Kokia làm việc theo chủ nghĩa Nhân đạo. Tại trường, cô là thành viên của hội những người tình nguyện và cố gắng giúp đỡ những người tàn tật, người già và các nạn nhân [[HIV/AIDS|AIDS]].<ref name="Habataki"/> Cô cũng hoạt động nghệ thuật tại các chương trình ca nhạc nhằm ngăn chặn chất gây nghiện,<ref name="Drugabuse"/> ủng hộ tổ chức Phúc lợi xã hội Nhật Bản (社会福祉法人),<ref name="Habataki"/> và phát hành nhiều đĩa đơn dành cho nạn nhân của trận động đất [[2007 Chūetsu offshore earthquake|Động đất Niigata năm 2007]].<ref name="Kokiaofficial"/> Kokia cũng cảm thấy rất đồng cảm với nạn nhân của vụ tấn công 11 tháng 9 tại Hoa Kỳ.<ref name="Kokiaofficial"/> Cô đã tặng 10.000 bản của ấn phẩm ''[[Music Gift]]'', trên đường phố [[Thành phố New York|New York]] để tưởng niện đến vụ khủng bố..<ref name="Kokiaofficial"/> Rất nhiều bài hát của Kokia là thông điệp về con người và môi trường,<ref>{{chú thích web | url=http://www.ocn.ne.jp/ecoplus/life/interview/001.html | title=第1回 KOKIAさんにん聞くーエコって本当は自分に優しいことかもー | work=OCN | language=ja | access-date =ngày 8 tháng 3 năm 2010 | archive-date=2012-02-24 | archive-url=https://web.archive.org/web/20120224211010/http://www.ocn.ne.jp/ecoplus/life/interview/001.html }}</ref> hoặc về cách mà con người sống tốt hơn.<ref>{{chú thích web | url=http://www.cdjournal.com/main/cdjpush/kokia/1000000309 | title=インタビュー:KOKIA、配信限定シングル3部作の第1弾 "いのち"をテーマに歌われる、ポジティヴなメッセージ |work=CDJournal | language=ja |date = ngày 6 tháng 8 năm 2009 |access-date =ngày 8 tháng 3 năm 2010}}</ref> Kokia nhấn mạnh việc sáng tác các bài hát của mình về tình yêu và hoà bình..<ref>{{chú thích web | url=http://www.viviana.jp/weblog/kokia/ | title=Musictranslator | work=Viviana | language=ja | access-date =ngày 8 tháng 3 năm 2010 | archive-date=2007-09-30 | archive-url=https://web.archive.org/web/20070930150203/http://viviana.jp/weblog/kokia/ }}</ref> |
||
Kokia cũng là một người yêu chó. Trong suốt thập kỉ đầu của thế kỉ 21, cô sở hữu bốn con chó tên là: Donna, Muta, Nero và Titti.<ref name="inunohanashi">{{chú thích web | url=http://www.kokia.com/blog/40/ | title=BLOG: 犬の話 | work='Otonami' Music Translator Kokia's Blog | language= |
Kokia cũng là một người yêu chó. Trong suốt thập kỉ đầu của thế kỉ 21, cô sở hữu bốn con chó tên là: Donna, Muta, Nero và Titti.<ref name="inunohanashi">{{chú thích web | url=http://www.kokia.com/blog/40/ | title=BLOG: 犬の話 | work='Otonami' Music Translator Kokia's Blog | language=ja | access-date =ngày 28 tháng 3 năm 2010 | archive-date=2007-11-24 | archive-url=https://web.archive.org/web/20071124074935/http://www.kokia.com/blog/40/ }}</ref> Tuy nhiên, Dona đã qua đời vào tháng 2 năm 2010.<ref>{{chú thích web | url=http://www.kokia.com/blog/50/ | title=春風にのって | work='Otonami' Music Translator Kokia's Blog | language=ja | date=ngày 20 tháng 3 năm 2010 | access-date =ngày 28 tháng 3 năm 2010 | archive-date=2007-11-24 | archive-url=https://web.archive.org/web/20071124075006/http://www.kokia.com/blog/50/ }}</ref> Cô đã nhắc đến những con chó trong nhiều tác phẩm nghệ thuật, như {{nihongo|"Shiroi Inu to Odoru Yoru"|白い犬と踊る夜|Night Dancing with a White Dog}}, và trong "Say Hi!!," khi lời nhạc nói về "lái xe ra bãi biển để chơi với Dona của chúng ta."<ref>{{chú thích web | url=http://music.goo.ne.jp/lyric/LYRUTND49215/index.html | title=Say Hi!! KOKIA 歌詞情報 - goo 音楽 | work=Goo | language=ja | access-date =ngày 28 tháng 3 năm 2010 | archive-date=2012-02-29 | archive-url=https://web.archive.org/web/20120229232351/http://music.goo.ne.jp/lyric/LYRUTND49215/index.html }}</ref> Nhiều bài đăng trên blog cá nhân của cô đều đề cập xung quanh các chú chó, và cô còn phân mục đặc biệt cho những bài đăng này.<ref name="inunohanashi"/> |
||
Cô có hai con, một trai một gái. Con |
Cô có hai con, một trai một gái. Con trai cả là Kamiki Ryunosuke đang là một diễn viên, diễn viên lồng tiếng. Còn cô con gái út là Rena Kato đang là một thần tượng tại AKB48 |
||
==Danh sách các tác phẩm== |
==Danh sách các tác phẩm== |
||
Dòng 134: | Dòng 134: | ||
* 2004: "[[So Much Love for You]]" |
* 2004: "[[So Much Love for You]]" |
||
* 2004: "[[Yume ga Chikara]]" |
* 2004: "[[Yume ga Chikara]]" |
||
* 2005: "[[Time to Say Goodbye]]" <ref>{{chú thích web | url = http://www.amazon.co.jp/time-say-goodbye-KOKIA/dp/B0009V1H2K/ref=ntt_mus_ep_dpi_9 | tiêu đề = Amazon.co.jp: KOKIA, 森田文人, 中西亮輔, |
* 2005: "[[Time to Say Goodbye]]" <ref>{{chú thích web | url = http://www.amazon.co.jp/time-say-goodbye-KOKIA/dp/B0009V1H2K/ref=ntt_mus_ep_dpi_9 | tiêu đề = Amazon.co.jp: KOKIA, 森田文人, 中西亮輔, Kokian's, 石川智久: time to say goodbye | author = | ngày = | ngày truy cập = 6 tháng 3 năm 2015 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = }}</ref> |
||
* 2005: "[[Dandelion]]" <ref>{{chú thích web | url = http://www.amazon.co.jp/dandelion-KOKIA/dp/B000793F0G/ref=ntt_mus_ep_dpi_5 | tiêu đề = Amazon.co.jp: KOKIA: dandelion | author = | ngày = | ngày truy cập = 6 tháng 3 năm 2015 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = }}</ref> |
* 2005: "[[Dandelion]]" <ref>{{chú thích web | url = http://www.amazon.co.jp/dandelion-KOKIA/dp/B000793F0G/ref=ntt_mus_ep_dpi_5 | tiêu đề = Amazon.co.jp: KOKIA: dandelion | author = | ngày = | ngày truy cập = 6 tháng 3 năm 2015 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = }}</ref> |
||
* 2006: "[[Ai no Melody/Chōwa Oto (With Reflection)]]" |
* 2006: "[[Ai no Melody/Chōwa Oto (With Reflection)]]" |
||
Dòng 154: | Dòng 154: | ||
==Tham khảo== |
==Tham khảo== |
||
{{tham khảo| |
{{tham khảo|30em}} |
||
==Liên kết |
== Liên kết ngoài == |
||
*[http://www.kokia.com/ Trang web tiếng Nhật chính thức] |
*[http://www.kokia.com/ Trang web tiếng Nhật chính thức] |
||
*[http://www.kokia.fr/ Trang web tiếng Pháp chính thức] |
*[http://www.kokia.fr/ Trang web tiếng Pháp chính thức] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20130717100705/http://www.kokia.fr/ |date=2013-07-17 }} |
||
*[http://www.kokia.com/blog/ Blog chính thức] |
*[http://www.kokia.com/blog/ Blog chính thức] |
||
*[http://www.jvcmusic.co.jp/-/Discography/A012051/-.html Trang chủ của Hãng Victor Entertainment] |
*[http://www.jvcmusic.co.jp/-/Discography/A012051/-.html Trang chủ của Hãng Victor Entertainment] |
||
Dòng 168: | Dòng 168: | ||
{{Thời gian sống|1976}} |
{{Thời gian sống|1976}} |
||
{{Persondata <!-- Metadata: see [[Wikipedia:Persondata]]. --> |
|||
| NAME =Kokia |
|||
| ALTERNATIVE NAMES = |
|||
| SHORT DESCRIPTION = |
|||
| DATE OF BIRTH =1976-07-22 |
|||
| PLACE OF BIRTH = |
|||
| DATE OF DEATH = |
|||
| PLACE OF DEATH = |
|||
}} |
|||
[[Thể loại:Nữ ca sĩ Nhật Bản]] |
[[Thể loại:Nữ ca sĩ Nhật Bản]] |
||
[[Thể loại:Người Tokyo]] |
[[Thể loại:Người Tokyo]] |
||
[[Thể loại:Nữ ca sĩ thế kỷ 21]] |
[[Thể loại:Nữ ca sĩ thế kỷ 21]] |
||
[[Thể loại:Nữ ca sĩ thế kỷ 20]] |
[[Thể loại:Nữ ca sĩ thế kỷ 20]] |
||
[[Thể loại:Ca sĩ Nhật Bản thế kỷ 21]] |
|||
[[Thể loại:Nhạc sĩ anime]] |
|||
[[Thể loại:Nữ ca sĩ nhạc pop Nhật Bản]] |
|||
[[Thể loại:Ca sĩ từ Tokyo]] |
Bản mới nhất lúc 22:20, ngày 29 tháng 6 năm 2024
Kokia | |
---|---|
Kokia performing in concert in Paris, 2008. | |
Thông tin nghệ sĩ | |
Tên khai sinh | Yoshida Akiko (吉田亜紀子) |
Tên gọi khác | Kokia |
Sinh | 22 tháng 7, 1976 |
Nguyên quán | Tokyo, Nhật Bản |
Thể loại | Pop, ethereal wave, neoclassical dark wave, dân ca |
Nghề nghiệp | Ca sĩ, người viết bài hát, nhà sản xuất |
Nhạc cụ | Vĩ cầm, dương cầm, ghi-ta, giọng hát |
Năm hoạt động | 1998-nay |
Hãng đĩa | Pony Canyon (JP, 1998-2000) Victor (JP, 2001-nay) Kazé/Wasabi (FR) Universal (TW, 2011-nay)[1] |
Hợp tác với | Trịnh Tú Văn Kawamura Ryūichi Kanno Yoko Itō Masumi |
Website | Kokia Web |
Yoshida Akiko (吉田 亜紀子 (Cát Điền Á Kỉ Tử) Yoshida Akiko)[2][3] là một ca sĩ – nhạc sĩ người Nhật, cô thường được gọi là Kokia (viết là KOKIA). Cô được biết đến nhờ vào bài "Arigatō..." (ありがとう... Cảm ơn) (bài hát giữ vị trí số 1 tại Hồng Kông khi nó được cover bởi Trịnh Tú Văn) và "The Power of Smile." Cô cũng được ký hợp đồng thu âm, phân phối các sản phẩm anime/game soundtracks, một trong những bản làm nên tên tuổi của cô là "Ai no Melody/Chōwa Oto (With Reflection)" trong phim Gin-iro no kami no Agito, "Follow the Nightingale" trong game Tales of Innocence, và "Tatta Hitotsu no Omoi" trong anime Gunslinger Girl: Il Teatrino.
Kokia thường biểu diễn ở châu Âu, với việc ca hát và phát hành âm nhạc thông qua Wasabi Records, một chi nhánh của Kazé.
Đời thường
[sửa | sửa mã nguồn]Khi còn nhỏ
[sửa | sửa mã nguồn]Kokia sinh năm 1976 và được mẹ nuôi lớn.[4] Cô bắt đầu chơi Violon vào lúc 2 tuổi rưỡi, tuy nhiên, cô lại tỏ ra thích thú với cây Piano của gia đình hơn.[5] Thông thường, thay vì chơi với đồ chơi, Kokia thường chơi với cây Piano.[6] Cô nhớ rằng, mình đã từng đặt những cuốn sách hình lên giá nhạc, và đàn theo mỗi khi âm nhạc xuất hiện trên màn hình.[5]
Khi lên 10, Kokia ra nước ngoài với chị là Kyoko để học trường Âm nhạc mùa hè (cô thực hiện chuyến đi lần 2 vào năm 14 tuổi).[6] Vào trung học, cô học thanh nhạc [7] và opera, và theo đuổi chuyên môn opera tại Trường âm nhạc Toho Gakuen.[8][9]
Trong thời gian đại học, một người bạn đã đưa bản thu âm demo của Kokia cho những nhà thu âm.[5] Sau đó Kokia đã được ký hợp đồng với Pony Canyon, và cô xuất hiện trên thị trường vào năm 1998 khi vẫn còn là sinh viên.[8] Cô tạo ra nghệ danh của mình bằng việc đảo các âm tiết trong họ của cô Akiko.[5] Bài hát phát hành đầu tiên của cô là "For Little Tail," đã được sử dụng như bài hát mở đầu cho game Tail Concerto (dù nó đã được phát hành như bản track phụ trong album single "Road to Glory").[10] Một số ít single đầu tiên của cô không được sáng tác bới cô, thay vào đó là do Hinata Toshifumi vàKanno Yoko viết.[11] Sau 4 single, cô cho phát hành album chính thức của mình, đó là Songbird vào năm 1999.[11] Không như những đĩa đơn khác sau đó, đa phần là những bài hát do chính Kokia viết.[11]
Không bản phát hành nào của cô được xếp hạng cao,[12] tuy nhiên, single dẫn đầu của cô từ Album, "Arigatō..." (ありがとう... Cảm ơn), đã thành công rực rỡ tại Hồng Kông. NÓ được trao giải 3 năm 1999 tại Giải thưởng nhạc pop quốc tế Hồng Kông (香港國際流行音樂大赏).[8] Ca sĩ Hồng Kông Trịnh Tú Văn đã cover bài hát và phát hành nó và đặc tên cho album của mình "Arigatō" vào tháng 10 năm 1999.[13] Và bài hát trở thành Hit tại thành phố Hồng Kông.[6]
Victor Entertainment
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi tung ra album đầu tiên của mình, kokia đã không tiếp tục các sản phẩm âm nhạc với Pony Canyon.[11] Sự phát triển album mới của cô sau đó là 5 bài hát dành cho Luna Sea giọng ca của nhà sản xuất Kawamura Ryūichi ЯKS, vào năm 2000.[14] Album được phát hành dưới trướng của Victor Entertainment. Năm 2001, cô trở lại công chúng như là thành viên của Victor, và phát hành 3 single tiếp theo của mình.[8]
Kokia tiếp tục thành công tại châu Á, với các chiến lược chiêu thị đầu tư cho âm nhạc rộng rãi khắp khu vực.[7] Năm 2001, cô trình diễn tại hai buổi hòa nhạc cao cấp ở Trung Quốc: một là buổi hòa nhạc chống lại chất gây nghiện thu hút 30.000 người tham gia cùng với sự tham gia của Tứ đại thiên vương (Trương Học Hữu, Lưu Đức Hoa, Quách Phú Thành và Lê Minh),[7][15] và tại một buổi hòa nhạc với hơn 120.000 người vào năm 2001 để chào mừng năm mới trong sự kiện countdown 2001 tại Đài Loan.[7] Vào tháng 1 năm 2002, Kokia phát hành album thứ hai của mình với tên gọi Trip Trip, album đầu tiên mà chính cô đầu tư phát triển sản xuất.[9] Giống như các album debut của cô, không có bản thu âm nào đạt được hạng cao tại Nhật Bản.[12]
Tuy nhiên, năm 2003, Kokia lần đầu tiên gặt hái được sự chú ý của dư luận. Single của cô với tên gọi "Kawaranai Koto (Since 1976)" được sử dụng như là bài hát chính của drama Itoshiki Mono e,[7] single đã đưa Kokia lọt top 50 bảng xếp hạng.[12] Tuy vậy, bản HIT lớn nhất của cô lại là "The Power of Smile/Remember the Kiss." Nó đã gặt hái được tiếng tăm sau khi được sử dụng trong quảng cáo của sản phẩm dưỡng tóc Kao.[8] Kokia sau đó đã được đề nghị trình diễn trong một chương trình âm nhạc nổi tiếng Music Station.[7] Single đã phá top 20 tại Nhật Bản [12] và được chứng nhận bản GOLD bởi RIAJ.[16] Album tiếp theo, Remember Me, cũng nằm trong top 20 và bán trên 45.000 bản.[12]
Những bài hát trong lúc cô còn ở Pony Canyon-era như "I Catch a Cold" và "Shiroi Yuki" (白い雪 Tuyết trắng) đã được sử dụng trong soundtrack cho bộ drama Trung Quốc tại vịnh Cá Heo vào 2003.[17] Đây là bài hát đánh dấu sự kết thúc của sự nghiệp tham gia thị trường âm nhạc Trung Quốc của cô.
Album thứ tư của Kokai Uta ga Chikara (phát hành năm 2004) cũng sớm đạt được thành công khi bán được 20.000 bản.[12] Single lớn nhất từ album này là "Yume ga Chikara," đã được sử dụng như là bài hát cổ vũ cho đội tuyển Nhật Bản tại Thế vận hội Mùa hè 2004.[7]
Trong khi Kokia bắt đầu phát triển sản phẩm âm nhạc của mình với game và anime ngay khi cô debut, cũng phải đến năm thi bài hát chủ đề của cô mới bắt đầu thành công. Single của cô mang tên "Ai no Melody/Chōwa Oto (With Reflection)" đã được sử dụng như là 2 bài hát chủ để của phim anime Gin-iro no kami no Agito, và nó vươn lên vị trí thứ 30 trên bảng xếp hạng đĩa đơn Oricon.[12]
Vào tháng 2 năm 2006, Kokia cho phát hành bản hit đình đám nhất của cô, Pearl: The Best Collection, và bộ sưu tập video clips thành công, Jewel: The Best Video Collection.[18] Bộ sưu tập các bài hát hay nhất đã vươn lên vị trí 19 trong bảng xếp hạng các album.[12]
Anco & Co., France
[sửa | sửa mã nguồn]Từ năm 2006 trở đi, Kokia bắt đầu làm việc tại thị trường chuâ Âu, cùng lúc đó, cô phát triển khả năng điều hành việc phát triển các sản phẩm âm nhạc tốt hơn. Vào tháng 1, cô tiến hành chương trình âm nhạc đầu tiên của mình tại Paris, và trình diễn tại triển lãm Công nghiệp thương mại âm nhạc Midem.[7] Sản phẩm Pearl được ra mắt một tháng trước khi phiên bản tiếng Nhật được trình làng tại pháp và Tây Ban Nha.[7]
Vào tháng 6 năm 2006, Kokia quyết định thiết lập công ty sản xuất của mình, được tách ra từ Victor Entertainment, và được gọi là Anco & Co., sau khi cô khát khao giành được quyền kiểm soát việc phát triển sản phẩm của mình..[7] Vào tháng 12, cô trở lại thị trường pháp với nhà phân phối ấn phẩm anime Wasabi Records, releasing her 5th album Aigakikoeru: Listen for the Love, 6 tháng trước khi bản tiếng Nhật được phát hành.[19]
Vào tháng 12 năm 2007, Kokia giành được thành công thứ hai trong việc phát hành đĩa đơn về game/anime của mình, với "Follow the Nightingale." Bản nhạc đã được dùng cho game Tales of Innocence, và đạt được hạng 30 trên Oricon.[12]
Khả năng điều khiển sáng tạo tốt hơn của Kokia cho phép âm nhạc của cô được phát hành ở nhiệp độ cao hơn. Năm 2008, Kokia phát hành 3 album: tân cổ điển The Voice, album nền của Ireland Fairy Dance và album Giáng sinh đầu tiên của mình Christmas Gift.[18] Năm 2009, Kokia phát hành 2 album cùng lúc (Kokia Infinity Akiko: Balance và Akiko Infinity Kokia: Balance) để kỉ niệm 10 năm ca hát của mình.[7] Cô cũng tổ chức tour vòng quan thế giới đầu tiên với việc trình bày các ca khúc bằng tiếng Nhật, Pháp, Ireland, Ba Lan, Bỉ và Đức.[7]
Với album lần thứ 11, Real World, cô đã vòng quang Tunisia và sa mạc Sahara để tìm cảm hứng.[20]
Nghệ thuật
[sửa | sửa mã nguồn]Giọng hát
[sửa | sửa mã nguồn]Giọng hát của cô thường được khen tặng bởi các nhà phê bình cho chất giọng trong trẻo sáng sủa.[21][22][23] Nó đã diễn tả bởi Key trong JaME World như là dễ hỏng và nghe rõ cả tiếng thở.[24]
Năm 2004, trên chương trình truyền hình TV Daimei no Nai Ongaku-kai 21 (題名のない音楽会21), Kokia đã thử cố gắng phá vỡ Kỉ lục Guinness Thế giới cho việc giữ nốt cao lâu nhất. Việc trình diễn khả năng cappella của cô 'O Sole Mio, cô đã giữ nốt trong 29.5 giây, tuy nhiên đã không thể phá vỡ kỉ lục.[25]
Sáng tác nhạc
[sửa | sửa mã nguồn]Từ album thứ hai của mình, Trip Trip, Kokia đã viết tất cả các bài hát gốc xuất hiện trong album của cô.[11] Kokia cũng đã từng hợp tác viết nhạc cho những bài hát mà cô sẽ trình bày trong game hoặc anime (vì đây không phải là luật nên nhiều bài hát được viết bới các tác giả khác).[11]
Kokia viết một lượng lớn tác phẩm của mình bằng tiếng Nhật, một số bằng tiếng Anh hoặc một phần tiếng Anh (như "The Rule of the Universe," "Say Hi!!", and "So Sad So Bad."). Cô mở rộng hợp tác trong nhiều ngôn ngữ khác nhau như tiếng Ý ("Il Mare dei Suoni," "Insonnia.") và tiếng Irish ("Taimse im' chodhadh" và "Siuil a Run" từ album tiếng Irish của cô Fairy Dance).
Các bài hát hợp tác như "Chōwa Oto" (調和 oto Harmony, Sound) và "Follow the Nightingale," Kokia viết lời cho giai điệu. Cho cả hai bài đó, cô thường lựa chọn các ký tự đặc trưng được đảo ngược (như lời "nimiunooto denzush," khi đảo ngược sẽ cho "Oto no umi ni shizunde" (音の海に 沈んで chìm vào âm thanh của biển)).[26] Tại "Chōwa Oto", Kokia cũng đã chia nốt nhạc (các số 3 25 15 21 23 và 1) tương xứng với các ký tự của bản chữ tiếng Anh English alphabet (1=A, 26=Z) để viết lên tên bài hát wāpuro rōmaji (C Y O U W A).[26]
Nhà phê bình âm nhạc Tomisawa Issei xem Kokia là một trong những nhạc sĩ yêu thích của ông.[27]
Cuộc sống cá nhân
[sửa | sửa mã nguồn]Nghệ sĩ Violin Yoshida Kyoko là chị của Kokia,[cần dẫn nguồn] và cũng tham gia vào Trường âm nhạc Toho Gakuen.[28]
Ông của Kokia là nhà quản lý công ty đóng tàu của Nhật Bản.[29] Cô đã sản xuất một ấn phẩm phim ngắn là "Ojii-chan no Tulip" (おじいちゃんのチューリップ Granddad's Tulips) và bài hát (Grandfather's Ship) trong chính danh dự của ông.[30][31]
Kokia được nuôi lớn trong gia đình Thiên chúa giáo, và tham gia vào các lễ mét mỗi Chủ nhật từ khi còn bé.[32] Cô viết khá nhiều bài hát về Chúa, như "Why Do I Sing?," "Everlasting," "Inori ni mo Nita Utsukushii Sekai" (祈りにも似た美しい世界) và "Sei Naru Yoru ni" (聖なる夜に In the Holy Night).
Kokia làm việc theo chủ nghĩa Nhân đạo. Tại trường, cô là thành viên của hội những người tình nguyện và cố gắng giúp đỡ những người tàn tật, người già và các nạn nhân AIDS.[5] Cô cũng hoạt động nghệ thuật tại các chương trình ca nhạc nhằm ngăn chặn chất gây nghiện,[15] ủng hộ tổ chức Phúc lợi xã hội Nhật Bản (社会福祉法人),[5] và phát hành nhiều đĩa đơn dành cho nạn nhân của trận động đất Động đất Niigata năm 2007.[7] Kokia cũng cảm thấy rất đồng cảm với nạn nhân của vụ tấn công 11 tháng 9 tại Hoa Kỳ.[7] Cô đã tặng 10.000 bản của ấn phẩm Music Gift, trên đường phố New York để tưởng niện đến vụ khủng bố..[7] Rất nhiều bài hát của Kokia là thông điệp về con người và môi trường,[33] hoặc về cách mà con người sống tốt hơn.[34] Kokia nhấn mạnh việc sáng tác các bài hát của mình về tình yêu và hoà bình..[35]
Kokia cũng là một người yêu chó. Trong suốt thập kỉ đầu của thế kỉ 21, cô sở hữu bốn con chó tên là: Donna, Muta, Nero và Titti.[36] Tuy nhiên, Dona đã qua đời vào tháng 2 năm 2010.[37] Cô đã nhắc đến những con chó trong nhiều tác phẩm nghệ thuật, như "Shiroi Inu to Odoru Yoru" (白い犬と踊る夜 Night Dancing with a White Dog), và trong "Say Hi!!," khi lời nhạc nói về "lái xe ra bãi biển để chơi với Dona của chúng ta."[38] Nhiều bài đăng trên blog cá nhân của cô đều đề cập xung quanh các chú chó, và cô còn phân mục đặc biệt cho những bài đăng này.[36] Cô có hai con, một trai một gái. Con trai cả là Kamiki Ryunosuke đang là một diễn viên, diễn viên lồng tiếng. Còn cô con gái út là Rena Kato đang là một thần tượng tại AKB48
Danh sách các tác phẩm
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “Kokia”. UMusic.com.tw (bằng tiếng Trung). ngày 26 tháng 8 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2011.
- ^ “冬の苗場にGo!!”. 'Otonami' Music Translator Kokia's Blog (bằng tiếng Nhật). ngày 1 tháng 3 năm 2007 0-03-27. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2013. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|date=
(trợ giúp) - ^ “牛奶@咖啡"山東月"首站人氣高 遇瘋狂歌迷” (bằng tiếng Trung). China Broadcast. ngày 13 tháng 9 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2010.
- ^ “配信シングル3部作<Life Trilogy〜いのちの3部作〜>第2章、配信決定!!” (bằng tiếng Nhật). Kokia Web. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2010.
- ^ a b c d e f “第4回 KOKIAさん” (bằng tiếng Nhật). Shakai Fukushi Hōjin (社会福祉法人). Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2005. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.
- ^ a b c “KOKIA - バイオグラフィ - 音楽 - livedoor ニュース” (bằng tiếng Nhật). Livedoor. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.
- ^ a b c d e f g h i j k l m n o “プロフィール” (bằng tiếng Nhật). Kokia Web. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.
- ^ a b c d e “アーティスト・プローフィル” (bằng tiếng Nhật). CDJournal. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.
- ^ a b “Private Interview with KOKIA”. JaME World. ngày 20 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.
- ^ CyberConnect2 (ngày 30 tháng 6 năm 1998). Tail Concerto (bằng tiếng Nhật). PlayStation. Bandai.
- ^ a b c d e f “KOKIA アーティストページ - TSUTAYA online” (bằng tiếng Nhật). Tsutaya. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.
- ^ a b c d e f g h i “オリコンランキング情報サービス「you大樹」”. Oricon. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010. (subscription only)
- ^ “Arigatou by Sammi Cheng”. iTunes. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.
- ^ “[CD] 彼方まで / RKS”. Neowing (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.
- ^ a b “年輕偶像參與港台「禁毒滅罪耀北區」音樂會 發揚正義最大信息 呼籲大眾切勿以身試法”. RTHK (bằng tiếng Trung). ngày 17 tháng 11 năm 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.
- ^ “ゴールド等認定作品一覧 2003年10月”. RIAJ (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.
- ^ “At The Dolphin Bay Original Soundtrack”. YesAsia. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.
- ^ a b “KOKIA|ディスコグラフィー|@Victor Entertainment”. Victor Entertainment (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.
- ^ “KOKIA - ai ga kikoeru”. Wasabi Records (bằng tiếng Pháp). Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.
- ^ “KOKIA、サハラ砂漠に感謝と感動を学ぶ”. Barks (bằng tiếng Nhật). ngày 7 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010. [liên kết hỏng]
- ^ “新譜レビュー > KOKIA/歌がチカラ”. Listen.jp (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.
- ^ “商品の説明 - Amazon.co.jp”. Shunta Tanizaki. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2010.
- ^ “試聴記コメント/ガイドコメント”. CDJournal. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2010.
- ^ “KOKIA - trip trip”. JaME World. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.
- ^ Daimei no Nai Ongaku-kai 21 (題名のない音楽会21). TV Asahi. Tokyo, 2004-07-18. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.
- ^ a b “KOKIA Special Feature”. CDJapan. 2006. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.
- ^ M no Mokushiroku (Mの黙示録). TV Asahi. Tokyo, 2001-12-23. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.
- ^ “ヴァイオリニスト 吉田恭子 オフィシャルサイト:Profile”. Kyoko Yoshida (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2010.
- ^ “+++ お船の歌 +++”. 'Otonami' Music Translator Kokia's Blog (bằng tiếng Nhật). ngày 10 tháng 7 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2010.
- ^ “Exclusive Interview and Video Message from KOKIA”. JaME World. ngày 18 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.
- ^ “おじいちゃんのチューリップ観た?”. 'Otonami' Music Translator Kokia's Blog (bằng tiếng Nhật). ngày 2 tháng 7 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2010.
- ^ “★ HAPPY NIGHT 4 ★”. 'Otonami' Music Translator Kokia's Blog (bằng tiếng Nhật). ngày 17 tháng 6 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2010.
- ^ “第1回 KOKIAさんにん聞くーエコって本当は自分に優しいことかもー”. OCN (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.
- ^ “インタビュー:KOKIA、配信限定シングル3部作の第1弾 "いのち"をテーマに歌われる、ポジティヴなメッセージ”. CDJournal (bằng tiếng Nhật). ngày 6 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.
- ^ “Musictranslator”. Viviana (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.
- ^ a b “BLOG: 犬の話”. 'Otonami' Music Translator Kokia's Blog (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2010.
- ^ “春風にのって”. 'Otonami' Music Translator Kokia's Blog (bằng tiếng Nhật). ngày 20 tháng 3 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2010.
- ^ “Say Hi!! KOKIA 歌詞情報 - goo 音楽”. Goo (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2010.
- ^ http://www.amazon.co.jp/%E3%83%96%E3%83%A9%E3%82%B6%E3%83%BC%E3%82%BA-KOKIA/dp/B00005FREH/ref=ntt_mus_ep_dpi_1
- ^ “Amazon.co.jp: KOKIA: KOKIA outwork collection「p i e c e s」”. Truy cập 6 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Amazon.co.jp: KOKIA, 伊藤真澄, 天野遠子(CV.花澤香菜): "文学少女"メモワール サウンドトラックI”. Truy cập 6 tháng 3 năm 2015.
- ^ [http://www.jvcmusic.co.jp/-/Discography/A012051/VICL-64011.html “KOKIA�bWhere to go my love? �i�������Ձj�bVictor Entertainment”]. Truy cập 6 tháng 3 năm 2015. replacement character trong
|tiêu đề=
tại ký tự số 6 (trợ giúp) - ^ “Amazon.co.jp: KOKIA, 日向敏文: Tears in Love”. Truy cập 6 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Amazon.co.jp: KOKIA, 勝沼恭子, カラオケ, 井荻麟, 菅野よう子: 愛の輪郭”. Truy cập 6 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Amazon.co.jp: KOKIA, 水野幸代, 日向敏文, カラオケ: 愛しているから”. Truy cập 6 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Amazon.co.jp: KOKIA, 水野幸代, 日向敏文: ありがとう・・・”. Truy cập 6 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Amazon.co.jp: KOKIA, 吉村龍太: tomoni”. Truy cập 6 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Amazon.co.jp: KOKIA, 澤近泰輔: 天使”. Truy cập 6 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Amazon.co.jp: KOKIA, 澤近泰輔: Say Hi!!”. Truy cập 6 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Amazon.co.jp: KOKIA, Mike Oldfield, 西川進: 人間ってそんなものね”. Truy cập 6 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Amazon.co.jp: KOKIA, 森田文人, 中西亮輔, Kokian's, 石川智久: time to say goodbye”. Truy cập 6 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Amazon.co.jp: KOKIA: dandelion”. Truy cập 6 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Amazon.co.jp: KOKIA, 澤近泰輔: ありがとう・・・”. Truy cập 6 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Amazon.co.jp: KOKIA, 七瀬光: Transparent”. Truy cập 6 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Amazon.co.jp: KOKIA: Road to Glory~long journey~ (通常盤)”. Truy cập 6 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Amazon.co.jp: KOKIA, 伊藤真澄: Fate”. Truy cập 6 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Amazon.co.jp: KOKIA: OVA「最遊記外伝」OPテーマ 桜の樹の下/EDテーマ 光の方へ”. Truy cập 6 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Amazon.co.jp: KOKIA: 夢追人 / 至学館高等学校校歌”. Truy cập 6 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Amazon.co.jp: KOKIA, 伊藤真澄, 山本恭久(Usatrene Records): 記憶の光”. Truy cập 6 tháng 3 năm 2015.
- ^ “Amazon.co.jp: KOKIA: Battle of destiny”. Truy cập 6 tháng 3 năm 2015.