Bước tới nội dung

2NE1

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
2NE1
Thông tin nghệ sĩ
Nguyên quánSeoul, Hàn Quốc
Thể loại
Năm hoạt động2009 (2009)–2016 (2016)[1]
2024-nay
Hãng đĩa
Hợp tác với
Thành viên

2NE1 (tiếng Triều Tiên: 투애니원) là một nhóm nhạc nữ của Hàn Quốc được thành lập bởi YG Entertainment vào năm 2009. Nhóm bao gồm 4 thành viên: Bom, CL, Dara, và Minzy. Sau khi xuất hiện cùng nhóm nhạc nam Big Bang trong đĩa đơn quảng cáo "Lollipop", nhóm đã trở nên nổi tiếng với việc phát hành mini album cùng tên 2NE1 (2009) và 2NE1 (2011) và các album phòng thu, To Anyone (2010) và Crush (2014); tất cả đều đạt vị trí cao nhất trên ở hai vị trí hàng đầu trên Gaon Album Chart. Nhóm cũng đã tích lũy 9 đĩa đơn quán quân trên Gaon Digital Chart, bao gồm "Go Away", "Lonely", "I Am the Best", "I Love You" và "Come Back Home".

Bài hát chủ đề trong mini album đầu tay của nhóm, "Fire" và "I Don't Care", ngay lập tức đưa nhóm đến với sự chú ý trên toàn quốc, cả hai đĩa đơn đều đạt được nhiều thành công ở Nam Hàn và các khu vực khác của châu Á. "I Don't Care" nhận được giải Bài hát của năm tại Mnet Asian Music Awards năm 2009, đưa nhóm trở thành nhóm nhạc đầu tiên giành được Daesang trong cùng năm ra mắt. Nhóm tiếp tục thành công với album phòng thu đầu tiên To Anyone và mini album thứ hai năm 2011, sản phẩm thứ hai trong số đó đã tạo ra 4 đĩa đơn quán quân trên bảng xếp hạng, "Don't Cry", "Lonely", "I Am the Best" và "Ugly". Sau đĩa đơn "I Love You" năm 2012, nhóm bắt đầu chuyến lưu diễn New Evolution Global Tour, đã dừng chân tại 11 thành phố ở 7 quốc gia của châu Á và Bắc Mỹ, đồng thời đặt một cột mốc quan trọng trong ngành công nghiệp âm nhạc Hàn Quốc khi trở thành chuyến lưu diễn thế giới đầu tiên của một nhóm nhạc nữ K-pop.[2] Album phòng thu cuối cùng Crush của nhóm vào năm 2014 đã trở thành album K-pop có vị trí cao nhất trên Billboard 200 trong hơn 2 năm, đạt vị trí số 61.[3]

Bộ tứ cũng tiến hành sự nghiệp song song ở Nhật Bản, lần đầu tiên phát hành phiên bản tiếng Nhật của mini album thứ hai Nolza (2011), tiếp theo là album phòng thu Collection (2012) và phiên bản tiếng Nhật của Crush (2014). Sau một thời gian dài gián đoạn, Minzy rời nhóm vào tháng 4 năm 2016,[4] trong khi nhóm tan rã cùng với các thành viên còn lại vào tháng 11 năm đó.[1] Đĩa đơn cuối cùng "Goodbye" của nhóm được phát hành vào ngày 21 tháng 1 năm 2017.[5]

Được biết đến với phong cách thời trang độc đáo, khả năng xuất hiện trên sân khấu và thần thái, 2NE1 được coi là một trong những nhóm nhạc nữ Hàn Quốc thành công và nổi tiếng nhất trong suốt sự nghiệp của nhóm.[6][7][8] Theo báo cáo, nhóm đã bán được 66,5 triệu bản đĩa, giúp 2NE1 trở thành một trong những nhóm nhạc nữ bán chạy nhất mọi thời đại.[9][10] Tạp chí Billboard đã xếp hạng 2NE1 là một trong những nhóm nhạc nữ K-pop xuất sắc nhất thập kỷ qua,[7] trong khi The New York Times bình chọn chuyến lưu diễn thế giới New Evolution Global Tour của 2NE1 dừng chân tại Prudential CenterNew Jersey là một trong những "Buổi hòa nhạc xuất sắc nhất năm 2012".[11]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Ra mắt và thành công về mặt thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]
2NE1 tại Asia Song Festival lần thứ 6 vào năm 2009.

Đầu năm 2009, YG Entertainment thông báo rằng một nhóm nhạc nữ bao gồm 4 thành viên sẽ ra mắt vào tháng 5 năm đó.[12] Công ty tuyên bố rằng nhóm đã được đào tạo trong 4 năm và album đầu tay của họ sẽ có các bài hát do cựu trưởng nhóm Teddy Park của 1TYM sản xuất.[12][13][14] Tên của nhóm ban đầu được công bố là "21" nhưng do phát hiện ra một ca sĩ trùng tên, nhóm nhanh chóng được đổi tên thành "2NE1".[15] Tên "2NE1" của nhóm là từ viết tắt của "New Evolution of The 21 Century" và có cách phát âm trong tiếng Hàn gần giống với cụm từ tiếng Anh là "To Anyone" hoặc "Twenty One".[16] Vào năm 2015, có thông tin tiết lộ rằng trước khi thành lập nhóm, Bohyung của Spica và Linzy của Fiestar từng được đào tạo để trở thành những thành viên của nhóm, nhưng đã bị loại khỏi đội hình trước khi ra mắt.[17]

Mini album đầu tiên 2NE1 (2009) của 2NE1 có 2 đĩa đơn đã được phát hành trước đó, trong đó đĩa đơn đầu tiên, "Lollipop", được thu âm với nhóm nhạc nam cùng công ty Big Bang và phát hành vào ngày 27 tháng 3 năm 2009, để quảng cáo cho điện thoại LG Cyon.[18] Mặc dù đã ghi hình một video âm nhạc,[19] "Lollipop" đã không được quảng bá và điều này đã gây ra vấn đề với tính đủ điều kiện của bảng xếp hạng.[20] Đĩa đơn thứ hai, "Fire", được viết và sản xuất bởi Teddy Park của 1TYM.[21] Nó được phát hành vào tháng 5 và bao gồm các yếu tố của hip hopreggae.[22] Hai phiên bản cho video âm nhạc của "Fire" đã được sản xuất — một phiên bản "space" và một phiên bản "street".[23] Trong vòng 24 giờ đầu tiên phát hành, cả hai video đã đạt được hơn 1 triệu lượt xem.[24] Bài hát "Fire" và "2NE1" cũng đã trở thành cụm từ tìm kiếm trực tuyến phổ biến.[25] Đĩa đơn cuối cùng, "I Don't Care", được phát hành cùng với mini album cùng tên đầu tiên của nhóm vào tháng 7.[26] Các hoạt động quảng bá đã nhanh chóng được diễn ra ngay sau đó để thể hiện hình ảnh mềm mại, nữ tính hơn của nhóm, đối lập với hình ảnh sắc sảo được miêu tả trước đó trong "Fire".[26][27] "I Don't Care" đã trở thành bài hát được tải xuống nhiều nhất trong tháng đó, sau đó giành giải Bài hát của năm tại Mnet Asian Music Awards năm 2019.[28][29]

2NE1 ghi hình cho video âm nhạc của "Can't Nobody" vào năm 2010.

Mặc dù các thành viên trong nhóm đã thu âm và phát hành sản phẩm solo của riêng họ vào tháng 8, nhưng 2NE1 đã trình diễn phiên bản reggae của "I Don't Care" trên Inkigayo vào tháng 9;[30] phiên bản reggae trở nên phổ biến và nó được phát hành vào ngày 3 tháng 9 dưới dạng đĩa đơn kỹ thuật số.[30] Được thúc đẩy bởi sự thành công của các đĩa đơn của nhóm, doanh số của 2NE1 đã đạt 100,000 bản vào cuối năm.[31] 2NE1 sau đó đã biểu diễn tại Asia Song Festival, lần thứ 6, đại diện cho Hàn Quốc cùng với ba nhóm nhạc khác và giành được giải thưởng Tân binh châu Á xuất sắc nhất.[32]

Vào tháng 2 năm 2010, 2NE1 phát hành "Try to Follow Me" dưới dạng đĩa đơn kỹ thuật số để quảng cáo cho điện thoại di động Samsung Corby với không thông báo trước hoặc quảng bá.[33] Bài hát đạt vị trí số 1 trên Gaon Digital Chart.[34] Vào giữa năm 2010, 2NE1 đã đến Los Angeles và London để thu âm các bài hát tiếng Anh cho album tiếng Anh đầu tay của nhóm với nhà sản xuất âm nhạc will.i.am của The Black Eyed Peas. Nhóm đã thu âm 10 bài hát trong những buổi thu âm đầu tiên của nhóm.[35] Vào tháng 9 năm đó, nhóm đã phát hành album phòng thu đầu tiên To Anyone, ra mắt ở vị trí số 7 trên bảng xếp hạng album thế giới của Billboard.[36] Trước khi phát hành, album đã nhận được 120,000 bản đặt trước.[37] 4 trong số 12 bài hát của To Anyone đã được phát hành dưới dạng đĩa đơn; top 5 bản hit "Clap Your Hands", "Can't Nobody", "It Hurts (Slow)" và "Go Away".[38][39][40] Bài hát thứ năm có tên "Don't Stop the Music" đã được thu âm như một "món quà đặc biệt dành cho người hâm mộ Thái Lan" và cũng được sử dụng để quảng bá cho hợp đồng quảng cáo Yamaha Fiore của nhóm.[41] Tại Mnet Asian Music Awards năm 2010, 2NE1 đã giành được nhiều giải thưởng danh giá nhất trong số các nhóm nhạc tham dự lễ trao giải tối hôm đó, bao gồm "Nghệ sĩ của năm", "Video âm nhạc xuất sắc nhất" cho "Can't Nobody", "Nhóm nhạc nữ xuất sắc nhất" và giải "Album của năm".[42][43][44]

2011–2012: Ra mắt tại Nhật Bản, đột phá và chuyến lưu diễn đầu tiên

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 19 tháng 1 năm 2011, "Can't Nobody (phiên bản tiếng Anh)" được phát hành trên nhà bán lẻ kỹ thuật số Nhật Bản Recochoku dưới dạng nhạc chuông và nhạc chờ.[45] Tháng sau, một video âm nhạc đi kèm đã có sẵn để tải xuống thông qua iTunes Nhật Bản. Đĩa đơn tiếng Nhật đầu tay "Go Away" của nhóm được phát hành dưới dạng nhạc chuông vào ngày 9 tháng 3,[46] và sau đó được sử dụng làm bài hát chủ đề cho chương trình truyền hình Nhật Bản Mezamashi TV.[47] Vào ngày 16 tháng 3, Mini album tiếng Hàn đầu tiên của 2NE1 đã có sẵn tại Nhật Bản; các hoạt động quảng bá đã bị hủy bỏ do trận động đất và sóng thần Tōhoku.[48] 2NE1 ra mắt ở vị trí thứ 24 trên bảng xếp hạng Oricon, bán được 3,860 bản trong tuần đầu tiên phát hành.[49] Kế hoạch ban đầu cho việc ra mắt chính thức tại Nhật Bản trên chương trình Music Station đã bị hoãn lại cho đến cuối năm đó do trận động đất,[50] mặc dù nhóm đã tham gia chiến dịch "Pray for Japan" của Naver cùng với những người nổi tiếng Hàn Quốc khác để gây quỹ cho các nạn nhân động đất.[51]

2NE1 tại một sự kiện của Nikon vào năm 2011.

Nhóm trở lại Nam Hàn và tiếp tục phát hành mini album thứ hai 2NE1 (2011), mang đến những bản hit quán quân "Lonely", "I Am the Best" — đồng thời giành giải "Bài hát của năm" tại Mnet Asian Music Awards năm 2011 — và "Ugly", cũng như bản hit "Hate You".[52][53] Bản thân mini album đã là một thành công lớn, đứng đầu bảng xếp hạng Gaon và bán được hơn 108,000 bản.[54] Spin Magazine đã xếp hạng mini album là album nhạc pop xuất sắc nhất thứ sáu của năm 2011, xếp trên Coldplay, Ellie GouldingRihanna.[55] Sau khi kết thúc các đợt quảng bá vào tháng 8, 2NE1 đã tổ chức buổi hòa nhạc riêng đầu tiên bán cháy vé tại Hội trường Olympic ở Chamsil Olympic Park, Seoul, vào ngày 26, 27 và 28 tháng 8 trước khi bay về Nhật Bản.

Nhóm đã thu âm lại mini album thứ hai 2NE1 (2011) bằng tiếng Nhật; được tái phát hành với tên Nolza cùng năm, đạt vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Oricon và bán được hơn 48,000 bản.[56] Các phiên bản tiếng Nhật của "I Am the Best", "Hate You", "Go Away" và "Lonely" đã được phát hành dưới dạng đĩa đơn. Nhóm cũng bắt đầu chuyến lưu diễn Nhật Bản đầu tiên 2NE1 First Japan Tour – Nolza vào ngày 19 và 20 tháng 9 tại Yokohama Arena. That October, Tháng 10 năm đó, Iggy của MTV đã tổ chức một cuộc thi toàn cầu, trong đó 10 nhóm nhạc từ khắp nơi trên thế giới tranh tài trong một cuộc thi bình chọn cho danh hiệu "Nhóm nhạc mới xuất sắc nhất".[57] Với bài hát "I Am the Best", 2NE1 đã được trao danh hiệu này vào ngày 10 tháng 11 năm 2011, đây là giải thưởng đầu tiên của nhóm tại Hoa Kỳ.[58] 2NE1 đã biểu diễn tại Quảng trường Thời đại của thành phố New York vào tháng 12 để nhận vinh dự này. Cuối năm 2011, 2NE1 được đề cử tại Japan Record Awards cho "Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất", thua nhóm nhạc nữ Nhật Bản Fairies.[59][60]

2NE1 tại YouTube K-pop Awards vào tháng 11 năm 2011.

Vào ngày 28 tháng 3 năm 2012, 2NE1 phát hành album phòng thu tiếng Nhật đầu tiên Collection cùng với đĩa đơn tiếng Nhật thứ hai "Scream". Album bao gồm các phiên bản tiếng Nhật của các bài hát tiếng Hàn của nhóm như "Love Is Ouch", "Fire" và "I Don't Care" và cover bản hit "Like A Virgin" năm 1984 của Madonna. Nhiều phiên bản của album đã được phát hành, một số phiên bản bao gồm một DVD chứa các video âm nhạc tiếng Nhật và tiếng Hàn của nhóm, theo trang web âm nhạc của Oricon. Album đạt vị trí số 5 trên bảng xếp hạng album hàng ngày của Oricon và tiếp tục bán được hơn 32,000 bản tại Nhật Bản.[56][61]

Cuối năm đó, 2NE1 và nhóm nhạc nam cùng công ty Big Bang được mời biểu diễn lần đầu tiên tại lễ hội Springroove năm 2012 ở Nhật Bản cùng với một số nghệ sĩ hip hop hàng đầu của Hoa Kỳ và Nhật Bản. 2NE1 và nhóm nhỏ GD & TOP đã được mời biểu diễn tại lễ hội vào năm trước nhưng nó đã bị hủy bỏ do thảm kịch động đất và sóng thần ở Nhật Bản.[62] 2NE1 cũng hợp tác với nhóm nhạc hip hop Nhật Bản M-Flo cho bài hát "She's So (Outta Control)", nằm trong album phòng thu thứ sáu Square One của M-Flo. "She's So (Outta Control)" được phát hành với tư cách là bài hát mở đường trong album trong hai tuần trước khi phát hành vào ngày 29 tháng 2 năm 2012.[63] "She's So (Outta Control)" đạt vị trí số 43 trên bảng xếp hạng Billboard Japan Hot 100.[64] Nhóm đã kết thúc các hoạt động quảng bá tại Nhật Bản bằng việc biểu diễn tại lễ trao giải MTV Video Music Awards Japan năm 2012, diễn ra vào ngày 23 tháng 6 tại Makuhari Messe, nơi 2NE1 đã giành được giải thưởng "Nghệ sĩ mới có video xuất sắc nhất" cho bài hát "I Am the Best".[65] Đĩa đơn ngoài album "I Love You" đã được phát hành tại quê nhà của nhóm, đứng đầu bảng xếp hạng và trở thành đĩa đơn quán quân thứ sáu của nhóm.[66] Tháng 12 năm đó, 2NE1 và Big Bang được xếp trong danh sách "Nhóm nhạc có phong cách xuất sắc nhất năm 2012" của MTV Style; hai nhóm nhạc của YG Entertainment là những nghệ sĩ châu Á duy nhất góp mặt trong danh sách xếp hạng 10 nhóm nhạc, bao gồm One Direction, The Wanted, Backstreet Boys, Spice Girls, Destiny's Child, FunNo Doubt.[67]

2013–2014: Hợp tác, thành công toàn cầu và chuyến lưu diễn thế giới

[sửa | sửa mã nguồn]
Hologram của 2NE1 tại Everland vào năm 2013.

Vào ngày 14 tháng 3 năm 2013, 2NE1 phát hành đĩa đơn tiếng Anh "Take the World On", đây là sản phẩm hợp tác với ca sĩ người Mỹ will.i.am. Bài hát trước đây đã được sử dụng trong một quảng cáo cho máy tính Intel Ultrabook.[68][69] Vào ngày 21 tháng 3, trong một cuộc phỏng vấn với Elle, CL xác nhận nhóm vẫn chưa lên kế hoạch cho một album ở Hoa Kỳ nhưng muốn sản xuất thêm nhiều bài hát bằng tiếng Anh.[70] Nhóm đã hợp tác với will.i.am lần thứ hai cho đĩa đơn "Gettin' Dumb", bao gồm apl.de.ap, người bạn cùng nhóm của anh. Bài hát xuất hiện trong album thứ hai #willpower của will.i.am, được phát hành vào ngày 23 tháng 4 năm 2013.[71] Các đĩa đơn tiếp theo của 2NE1 được phát hành như đĩa đơn riêng lẻ và không gắn liền với một album, "Falling in Love" và "Missing You" trở thành đĩa đơn quán quân thứ bảy và thứ tám của nhóm. Đĩa đơn thứ ba ngoài album, "Do You Love Me", là bản hit top 3 của nhóm.[72]

"Đối với album này, chúng tôi đã tự giam mình rất nhiều trong phòng thu và cống hiến 100%. Chúng tôi cũng đã trưởng thành rất nhiều với tư cách là phụ nữ kể từ album đầu tiên và bạn sẽ có thể nghe thấy điều đó trong bản thu âm này. Ngoài ra, vì tôi đã viết rất nhiều bản nhạc, nó thậm chí còn mang tính cá nhân hơn đối với nhóm so với những bản thu âm trước đây của chúng tôi."

– CL thảo luận về âm nhạc từ album phòng thu tiếng Hàn thứ hai Crush của nhóm.[73]

Vào tháng 1 năm 2014, 2NE1 xuất hiện trong một tập của chương trình The Bachelor và sau đó xuất hiện trong đêm chung kết của America's Next Top Model, được ghi hình tại Nam Hàn.[74][75] Tháng sau, 2NE1 phát hành album phòng thu thứ hai Crush (2014).[76][77] Đĩa đơn "Come Back Home" và "Happy" đồng thời được phát hành; "Come Back Home" đạt vị trí số 1 trên Gaon Singles Chart, trở thành bản hit quán quân thứ chín của nhóm.[78] Đĩa đơn thứ ba của nhóm trong album, "Gotta Be You", được phát hành cùng với một video âm nhạc vào ngày 20 tháng 5. Crush đã bán được 5,000 bản trong 4 ngày ở Hoa Kỳ, đạt vị trí số 1 trên Billboard 200 và lập kỷ lục mới tại Hoa Kỳ cho "Album K-pop xếp hạng cao nhất và bán chạy nhất", đánh bại Girls' Generation và Big Bang.[79] Vào ngày 26 tháng 6 năm 2014, 2NE1 phát hành phiên bản tiếng Nhật của Crush, đứng ở vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng album hàng ngày của Oricon.[61]

Chuyến lưu diễn thế giới All Or Nothing World Tour ở Singapore.

Sau khi phát hành Crush, nhóm đã tổ chức All Or Nothing World Tour, bao gồm các điểm dừng tại Trung Quốc, Singapore, Đài Loan, Thái Lan, Philippines, Nhật Bản, Malaysia và Indonesia. Từ tháng 3 đến tháng 10, nhóm đã tổ chức 20 buổi hòa nhạc trên 16 thành phố, với tổng cộng 180,000 người tham dự.[80][81][82]

Đĩa đơn "I Am The Best" năm 2011 của 2NE1, được phát hành tại Hoa Kỳ vào ngày 11 tháng 12 bởi Capitol Records. Vào ngày 18 tháng 12, MTV Iggy đã trao giải "Bài hát của năm" cho "Gotta Be You".[83] Nhóm đã nhận được sự công nhận trên toàn thế giới vào cuối năm 2014; Crush là kỷ lục duy nhất của một nghệ sĩ châu Á được vinh danh trong danh sách "40 album xuất sắc nhất năm 2014" của Fuse TV",[84] và đứng đầu trong danh sách "album K-pop xuất sắc nhất năm 2014" của tạp chí Billboard.[85] Album cũng đứng ở vị trí số 11 trên bảng xếp hạng World Album cuối năm của Billboard, trở thành lần ra mắt đầu tiên của một nhóm nhạc K-pop trong lịch sử bảng xếp hạng.[86][87]

2015–2017: Hoạt động solo, Minzy rời nhóm và tan rã

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi Bom gián đoạn sự nghiệp do vụ bê bối chất cấm năm 2014, các thành viên khác của 2NE1 bắt đầu rẽ hướng sang các hoạt động cá nhân, khiến nhóm tạm ngừng hoạt động. Dara tái lập sự nghiệp diễn xuất của mình bằng cách đóng vai chính trong các bộ phim truyền hình web như Dr.IanWe Broke Up, cũng như Missing You của KBS. Minzy đã mở nhóm viện khiêu vũ Millennium Dance Academy.[88] CL bắt đầu sự nghiệp solo tại Hoa Kỳ với việc phát hành đĩa đơn "Hello Bitches". Hoạt động duy nhất của nhóm trong năm 2015 là buổi biểu diễn bất ngờ tại Mnet Asian Music Awards năm 2015 ở Hồng Kông. Sau buổi biểu diễn solo "The Baddest Female" và "Hello Bitches" của CL, tất cả các thành viên của 2NE1 đã tái hợp lại để biểu diễn "Fire" và "I Am the Best".[89] Buổi biểu diễn đã trở thành buổi biểu diễn MAMA được xem nhiều nhất bởi bất kỳ nhóm nhạc nữ nào. Nó đã được hoan nghênh và kết quả là Fuse đã liệt kê nó là một trong những buổi biểu diễn xuất sắc nhất năm 2015.[90] Mặc dù không trở lại, 2NE1 là nhóm nhạc K-pop được reblog thứ 16 trên Tumblr trong năm 2015,[91]Spotify đã đề cập đến cả 2NE1 và CL trong chiến dịch "Year in Music" của Twitter vì đạt được hơn 1 triệu người nghe. Nhóm cũng đã giành được chiến thắng tại Korea First Brand Awards năm 2016 của Trung Quốc cho "10 ngôi sao Hàn Quốc được mong đợi nhất năm 2016".[92]

Sau một năm gián đoạn, YG Entertainment xác nhận sự ra đi của Minzy vào tháng 4 năm 2016, tuyên bố nhóm sẽ tiếp tục hoạt động như một bộ ba.[4][93][94] Tuy nhiên, vào cuối tháng 11, công ty đã thông báo về sự tan rã của nhóm[95]. CL và Dara vẫn ký hợp đồng với tư cách nghệ sĩ solo trong khi Bom không gia hạn hợp đồng.[96] Đĩa đơn cuối cùng mang tên "Goodbye" được phát hành vào tháng 1 năm 2017 coi như một lời tạm biệt chân thành dành cho người hâm mộ của nhóm;[5] lấy cảm hứng từ một bức thư CL viết cho Minzy sau khi cô rời nhóm.[97] Bài hát đã đứng đầu bảng xếp hạng Billboard World Digital Songs.[98]

2022-nay: Tái hợp tại Coachella, thông báo tái xuất

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 17 tháng 4 năm 2022, 2NE1 bất ngờ xuất hiện và trình diễn ca khúc I Am the Best sau sân khấu của CL thuộc chuỗi sân khấu của công ty âm nhạc 88rising tại Coachella 2022[99]. Đây là sân khấu đầu tiên của 2NE1 có đầy đủ cả 4 thành viên sau 6 năm kể từ khi nhóm tan rã vào năm 2016. Tờ The A.V. Club của Hoa Kì đã xếp hạng tiết mục là 1 trong 10 phần trình diễn Coachella xuất sắc nhất của năm.[100]

Vào ngày 21 tháng 7 năm 2024, Công ty chủ quản 2NE1:YG Entertainment thông báo nhóm trở lại sau 7 năm. Nhóm cũng tổ chức concert tại Seoul (Hàn Quốc), Tokyo và Osaka (Nhật Bản) trong năm 2024 và world tour vào năm 2025.[101]

Thành viên

[sửa | sửa mã nguồn]

Thông tin thành viên

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách thành viên của 2NE1
Nghệ danh Tên khai sinh Vai trò Ngày sinh Nơi sinh Quốc tịch
Latinh Hangul Latinh Hangul
CL 씨엘 Lee Chae-rin 이채린 Leader, Main Rapper, Lead Dancer, Lead Vocalist, Face of the Group 26 tháng 2, 1991 (33 tuổi) Hàn Quốc Seoul, Hàn Quốc  Hàn Quốc
BOM Park Bom 박봄 Main Vocalist 24 tháng 3, 1984 (40 tuổi) Hàn Quốc Seoul, Hàn Quốc  Hàn Quốc
DARA 다라 Sandara Park 박산다라 Vocalist, Sub Rapper, Visual 12 tháng 11, 1984 (40 tuổi) Hàn Quốc Busan, Hàn Quốc  Hàn Quốc
Minzy 민지 Gong Minji 공민지 Main Dancer, Lead Vocalist, Lead Rapper, Maknae 18 tháng 1, 1994 (30 tuổi) Hàn Quốc Seoul, Hàn Quốc  Hàn Quốc

Nghệ thuật và hình tượng

[sửa | sửa mã nguồn]

Phong cách âm nhạc và ảnh hưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

2NE1 đã thu âm nhiều bài hát R&B với phong cách kết hợp các yếu tố của urban và dance-pop.[102] Trong mini album đầu tay 2NE1 (2009) của 2NE1, nhóm được nhận xét là có phong cách đặc biệt và cá tính. Trong khi "Lollipop" được phân loại là nhạc pop, đĩa đơn đầu tay của nhóm "Fire" chủ yếu chịu ảnh hưởng của hip hop và "I Don't Care" chịu ảnh hưởng của reggae.[103] Album trở lại To Anyone của nhóm được đánh dấu bằng sự chuyển hướng sang nhạc điện tử. "Go Away", đĩa đơn thành công nhất trong album, được xếp vào thể loại nhạc dance,[104] một số bài hát, bao gồm "It Hurts (Slow)", là R&B, một phong cách khác cũng đặc trưng cho mini album đầu tiên của nhóm.[105] Các đĩa đơn "Clap Your Hands", "Go Away" và "Can't Nobody" đã được ghi nhận nhờ những ấn tượng lâu dài của nhóm.[106]

2NE1 đã nhắc đến The Spice Girls và TLC là những nguồn cảm hứng âm nhạc.[107] Mỗi thành viên của nhóm đều được nhận xét là khác biệt về chất giọng, hình ảnh và phong cách thời trang;[108] Park Bom đã nhắc đến nữ ca sĩ người Mỹ BeyoncéMariah Carey là những nghệ sĩ có ảnh hưởng chính đến cô vì giọng hát khỏe và biểu diễn đầy nội lực. Cô đã liệt kê hip hop và R&B là thể loại âm nhạc yêu thích của mình.[109] Minzy nhắc đến ca sĩ Michael JacksonRihanna,[110] trong khi trưởng nhóm CL nhắc đến nhà sản xuất Teddy Park và nghệ sĩ giải trí người Mỹ Madonna và chọn Lauryn Hill là hình mẫu của cô.[111] Dara nhắc đến nữ ca sĩ kiêm diễn viên Uhm Jung-hwa là nguồn cảm hứng của cô và cô thần tượng Regine Velasquez, một ca sĩ nổi tiếng người Philippines. Dara cũng thích phong cách và âm nhạc của Britney Spears, nhắc đến nữ ca sĩ như là một hình mẫu của những bài hát mà cô thường hát khi lớn lên.[110]

Hình tượng

[sửa | sửa mã nguồn]
2NE1 onstage, seen from the side
2NE1 tại MTV Daum Music Fest vào năm 2011.

Kể từ khi ra mắt với "Fire" vào năm 2009, 2NE1 đã được biết đến với phong cách của họ, với thần thái và khả năng biểu diễn trên sân khấu.[112] Sau khi phát hành đĩa đơn đầu tay, nhóm đã được biết đến với hình tượng là "hip hop" và là phiên bản nữ của Big Bang; tuy nhiên, "I Don't Care" đã thay đổi nhận thức này thành quan niệm của những người phụ nữ mạnh mẽ và nữ tính.[26] Sau khi phát hành video âm nhạc cho "It Hurts (Slow)", các thành viên đã được chú ý với trang phục màu đen, phong cách gothic,[113] kiểu tóc quái dị và tóc giả.[114] Zack Greenburg từ tạp chí kinh doanh Forbes của Hoa Kỳ đã mô tả 2NE1 là một nhóm nhạc pop đặc trưng bởi những bộ trang phục táo bạo, tươi sáng và to lớn, điệp khúc cuốn hút được nhấn nhá bằng những câu rap và một giọng nói "vênh váo trước mặt". Anh cũng coi nhóm là "lớn hơn Psy", ca sĩ của đĩa đơn ăn khách trên toàn thế giới "Gangnam Style".[115]

Nhóm đã thu hút sự chú ý với phong cách thời trang kỳ lạ, nổi bật và được coi là những người tạo xu hướng và biểu tượng phong cách trong nước.[116] Các thành viên trong nhóm đã sử dụng hình tượng của 2NE1 trong một số quảng cáo và chương trình quảng bá. Năm 2009, nhóm ký hợp đồng làm người mẫu với Fila cho một chiến dịch thương mại mới.[117] Vào đầu tháng 5 năm 2013, trang web "2NE1Loves.com" được tung ra cùng với những video bí ẩn của các thành viên.[118] Dự án sau đó được tiết lộ là 2NE1 Loves Shinsegae, một sự chứng thực cho một cửa hàng bách hóa và thương hiệu Chrome Hearts.[119] Các bài hát của nhóm đã được sử dụng trong nhiều quảng cáo; "Lollipop" cho điện thoại LG Cyon, "Follow Me" cho Corby Folder của Samsung,[18][33] và "Don't Stop the Music" cho Yamaha Fiore. "Go Away" được sử dụng làm bài hát chủ đề cho chương trình truyền hình Mezamashi TV của Nhật Bản.[41][47] Sau hậu quả của trận động đất và sóng thần Tōhoku năm 2011, 2NE1 đã sử dụng hình tượng của nhóm cho chiến dịch "Pray for Japan" của Naver để giúp gây quỹ cho các nạn nhân.[51]

Ảnh hưởng và di sản

[sửa | sửa mã nguồn]

Được công nhận là đã phá vỡ hình ảnh khuôn mẫu của nhóm nhạc nữ K-pop, 2NE1 được biết đến là người đi tiên phong trong khái niệm "girl crush". Ngược lại với những định kiến về phụ nữ "sexy" hay "dễ thương", nhóm được cho là đã viết lại lịch sử và mang đến sự mở rộng phong cách nhóm nhạc nữ trong ngành.[120][121] Rolling Stone gọi họ là "không thể phủ nhận là một trong những nghệ sĩ có ảnh hưởng nhất" trong thời đại của họ, mở rộng phạm vi âm nhạc của K-pop và tuyên bố rằng trong quá trình này, họ "đã tạo ra ảnh hưởng rất lớn đến thế hệ nghệ sĩ" sau họ.[122] Tamar Herman từ Billboard nhận xét rằng "thái độ nữ tính và khái niệm âm nhạc sáng tạo của 2NE1 đã mở đường cho một thế hệ ngôi sao K-pop mới."[123] Tạp chí xếp 2NE1 trong số các nhóm nhạc nữ K-pop hàng đầu thập kỷ; "bộ tứ thống trị K-pop với sức hút mãnh liệt ngay từ ngày đầu" và "phong cách hip-pop mạnh mẽ của 2NE1 đã khởi đầu sự nghiệp đưa nhóm lên tầm cao thiên văn và mở đường cho một khía cạnh được trao quyền nhiều hơn cho các nhóm nhạc nữ K-pop."[7] Fuse nhấn mạnh âm nhạc gây nghiện và phong cách thời trang tiên tiến của họ, đồng thời cho biết họ "dẫn đầu cho sự phát triển quốc tế của nhạc pop và hip hop Hàn Quốc."[124] South China Morning Post gọi họ là một trong những nhóm nhạc nữ mang tính biểu tượng nhất trong thời đại của họ,[125] nơi họ "chứng minh tính nghệ thuật của mình thông qua hình ảnh sắc sảo, ý tưởng độc đáo và âm thanh linh hoạt, đồng thời trở thành một trong những nhóm nhạc có sức ảnh hưởng nhất của K-pop."[126]

Rolling Stone Korea gọi 2NE1 là nhóm nhạc huyền thoại, nhưng sau khi tan rã, "cuối cùng đã được vinh danh trên đại sảnh danh vọng của K-pop" khi "K-pop chào đón một thế hệ mới."[127] Tác phẩm của nhóm đã được công nhận trên toàn cầu—Caitlin Kelley của Billboard đã gọi "I Am the Best" là "một trong những concept girl crush mang tính biểu tượng nhất ở nhiều cấp độ",[128] trong khi Tom Breihan của Stereogum xếp video của nó là video âm nhạc hay thứ 2 trong những năm 2010.[129] Năm 2012, tạp chí Spin xếp hạng bài hát tương tự cùng với "Ugly" lần lượt là các bài hát K-pop hay thứ ba và thứ chín mọi thời đại.[130] Pitchfork gọi "Missing You" là một trong 20 bài hát quan trọng của K-pop[131] trong khi "I Am the Best" được coi là một trong 45 bài hát nổi bật trong lịch sử nhóm nhạc nữ.[132] Billboard xếp bài hát thứ hai và "I Love You" là bài hát K-pop hay thứ tư và thứ 67 trong những năm 2010, lưu ý đến tính linh hoạt của 2NE1 và khả năng "[đã] vượt qua rào cản ngôn ngữ" của họ.[133] "Fire" và "I Am the Best" đã được các chuyên gia trong ngành âm nhạc đánh giá là một số bài hát tiêu biểu của thể loại này dành cho nhóm nhạc nữ trong Melon và danh sách top 100 Những kiệt tác K-pop mọi thời đại của Seoul Shinmun, "thắp lửa" cho một "thái độ hoàn toàn mới" đối với âm nhạc của các nhóm nhạc nữ K-pop.[134][135] GQ vinh danh "I Am the Best" là một trong 24 bài hát định hình thập kỷ trên toàn thế giới[136] trong khi British GQ gọi 2NE1 là một trong những người thay đổi cuộc chơi của ngành công nghiệp K-pop trong những năm 2010.[137]

Nhiều ấn phẩm truyền thông khác nhau như The Independent, BillboardOfficial UK Charts, đã gọi họ là "Nữ hoàng K-pop".[126][138][139][140] Sau khi bộ tứ tan rã vào cuối năm 2016, tổng biên tập webzine Idology viết rằng nhóm đã xây dựng được hình ảnh mới về nữ thần tượng Hàn Quốc và tiến xa nhất, tạo dựng nên một cộng đồng fan K-pop ở nước ngoài. Nhà phê bình âm nhạc Kim Yun-ha đã viết rằng "câu nói 'gợi nhớ đến 2NE1' sẽ mãi mãi là lời ca ngợi vĩnh viễn của những nhà cách mạng K-pop".[121] 2NE1 đã được nhiều người coi là người có ảnh hưởng hoặc nguồn cảm hứng cho nhiều nghệ sĩ trong đó có (G)I-dle,[141] Blackpink,[142] Mamamoo,[143] Jeremy Scott,[144] Diplo,[145] Chungha,[146] Ailee,[147] Jeon Somi,[148] Choi Yena,[149] Seunghee của Oh My Girl,[150] Choi Yoo-jung,[151] Woo!ah!,[152] Lapillus,[153] Secret Number,[154] Chocolat,[155] Dal Shabet,[156] Stellar,[157] Jane của Momoland,[158] Vivi của Loona,[159] Lia của Itzy,[160] Hyeongshin của Hot Issue,[161] Tsuki của Billlie,[162] Dayoung của WJSN,[163] Kim Na-kyoung của TripleS,[164] và Sio của Fifty Fifty.[165] Trong cuộc phỏng vấn với Allure vào tháng 2 năm 2021, Key của Shinee đã đề cập rằng phong cách của các fan nữ của nhóm bị ảnh hưởng bởi các nhóm nhạc nam, anh cũng lấy cảm hứng từ 2NE1.[166]

Các dự án kinh doanh khác

[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách đĩa nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
  • To Anyone (2010)
  • Collection (2012)
  • Crush (2014)

Chuyến lưu diễn

[sửa | sửa mã nguồn]

Chuyến lưu diễn chính

[sửa | sửa mã nguồn]
  • The Party in Philippines (2011)
  • Nolza (2011)
  • New Evolution Global Tour (2012)
  • All or Nothing World Tour (2014)
  • Welcome Back Tour (2024-2025)

Chuyến lưu diễn khác

[sửa | sửa mã nguồn]
  • YG Family Concert (2010)
  • YG Family 15th Anniversary Concert (2011–2012)
  • YG Family World Tour: Power (2014)

Danh sách phim

[sửa | sửa mã nguồn]

Phim điện ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Ghi chú
2009 Style Khách mời
Girlfriends

Chương trình thực tế

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên Kênh
2009 2NE1TV Mnet
2010 2NE1TV Season 2
2011 2NE1TV Live: Worldwide Season 3
2014 America's Next Top Model Season 21 CBS
The Bachelor Season 18 ABC
The Tim Yap Show GMA Network

Giải thưởng và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]

Khi 2NE1 ra mắt, bài hát "Fire" của nhóm và những buổi biểu diễn trực tiếp sau đó đã được gọi là độc đáo và ấn tượng. Nhóm đã giành được nhiều giải thưởng trên các chương trình âm nhạc hàng tuần, chẳng hạn như InkigayoMusic Bank.[117] "Fire" cũng giành được cho nhóm giải Bài hát của tháng và Tân binh của tháng vào tháng 5 năm 2009.[167] "I Don't Care" đã mang lại cho nhóm thành công và sự công nhận tương tự, đồng thời giúp 2NE1 giành giải Bài hát của năm tại Mnet Asian Music Awards năm 2009.[168] Cùng năm, nhóm đã giành chiến thắng tại Cyworld Digital Music Awards với giải Nghệ sĩ bán chạy nhất, Nhóm nhạc tân binh xuất sắc nhất, giải Bonsang và Bài hát xuất sắc nhất cho "I Don't Care".[169] Nhóm cũng đã được đề cử tại Golden Disk Awards năm 2009 cho giải thưởng Phổ biến, Tân binh và Bonsang kỹ thuật số.[170] Tại Melon Music Awards, nhóm là nghệ sĩ mới duy nhất chiến thắng trong danh sách 10 nghệ sĩ Hàn Quốc hàng đầu và giải Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất.[171] Nhóm đã giành được giải thưởng cho Sân khấu của năm, Album của năm, Bài hát của năm tại GQ Awards năm 2009.

2NE1 đã giành được giải thưởng Nghệ sĩ của năm và Album của năm đầu tiên cho To Anyone tại Mnet Asian Music Awards năm 2010, đồng thời giành giải Nhóm nhạc nữ xuất sắc nhất và Video âm nhạc xuất sắc nhất cho "Can't Nobody".[172] Nhóm là nghệ sĩ đầu tiên giành được cả 3 giải thưởng Daesang tại Mnet Asian Music Awards.[173]

Vào ngày 29 tháng 11 năm 2011, 2NE1 đã giành được giải Nhóm nhạc có giọng ca xuất sắc nhất cho bài hát "Lonely" và lần thứ hai được trao giải Bài hát của năm cho "I Am the Best" tại Mnet Asian Music Awards năm 2011. Sau buổi lễ, 2NE1 đã được ghi nhận khi giành được nhiều giải thưởng Daesang nhất cho nghệ sĩ nữ trong lịch sử MAMA với 4 lần chiến thắng (2 giải Bài hát của năm, 1 giải Album của năm và 1 giải Nghệ sĩ của năm).[174] |}

Chương trình âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Ngày Bài hát
2009 23 tháng 7 "I DON'T CARE"
6 tháng 8
13 tháng 8
27 tháng 8
2010 16 tháng 9 "CLAP YOUR HANDS"
23 tháng 9 "CAN'T NOBODY"
30 tháng 9
7 tháng 10
2011 4 tháng 8 "UGLY"
2013 18 tháng 7 "FALLING IN LOVE"
15 tháng 8 "DO YOU LOVE ME"
28 tháng 11 "MISSING YOU"
5 tháng 12
2014 20 tháng 3 "COME BACK HOME"
27 tháng 3
Năm Ngày Bài hát
2009 17 tháng 7 "I DON'T CARE"
24 tháng 7
31 tháng 7
7 tháng 8
14 tháng 8
2010 17 tháng 9 "CAN'T NOBODY"
24 tháng 9 "GO AWAY"
1 tháng 10
2011 5 tháng 8 "I AM THE BEST"
Năm Ngày Bài hát
2013 20 tháng 7 "FALLING IN LOVE"
30 tháng 11 "MISSING YOU"
Năm Ngày Bài hát
2009 14 tháng 6 "FIRE"
21 tháng 6
26 tháng 7 "I DON'T CARE"
2 tháng 8
9 tháng 8
23 tháng 8
2010 19 tháng 9 "CAN'T NOBODY"
26 tháng 9
3 tháng 10
10 tháng 10 "GO AWAY"
2011 29 tháng 5 "LONELY"
17 tháng 7 "I AM THE BEST"
7 tháng 8 "UGLY"
14 tháng 8
2013 21 tháng 7 "FALLING IN LOVE"
1 tháng 12 "MISSING YOU"
8 tháng 12
2014 16 tháng 3 "COME BACK HOME"

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Tamar Herman (ngày 26 tháng 11 năm 2016). “2NE1 Officially Disbands, YG Entertainment Renews Contracts With CL and Dara”. www.billboard.com. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2017.
  2. ^ Benjamin, Jeff (ngày 23 tháng 8 năm 2012). “2NE1 Invades America: Behind the Scenes With the K-Pop Phenomenon”. Billboard (bằng tiếng Anh).
  3. ^ “2NE1's 'Crush' Is First K-Pop Entry on Year-End World Albums Chart”. Billboard (bằng tiếng Anh).
  4. ^ a b Doo, Rumy (ngày 5 tháng 4 năm 2016). “Member Gong Minzy to leave 2NE1”. Kpop Herald. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2016.
  5. ^ a b “[공식입장] YG 측 "2NE1, 21일 '굿바이' 음원 발표" (bằng tiếng Hàn). news.nate.com. ngày 5 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2017.
  6. ^ E&M, By Korea Times, KF and CJ (ngày 14 tháng 7 năm 2012). “2NE1 out to conquer the world”. ABS-CBN News (bằng tiếng Anh).
  7. ^ a b c Herman, Tamar (ngày 12 tháng 7 năm 2017). “10 Best K-Pop Girl Groups of the Past Decade: Critic's Picks”. Billboard. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2017.
  8. ^ Liu, Marian (ngày 17 tháng 2 năm 2017). “K-pop's growing pains: Why Asia's biggest bands are splitting up”. CNN. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2017.
  9. ^ “2018 Winter Olympics in South Korea: A guide to all things K-pop | The Michigan Journal”. ngày 16 tháng 12 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2021.
  10. ^ Dutta, Soma (ngày 15 tháng 10 năm 2015). “16 Best Selling Girl Groups of All Time”. Insider Monkey. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2017.
  11. ^ “The Best Concerts of 2012, as Seen by Times Critics”. The New York Times. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2013. This was the year K-pop arrived — not in the form of "Gangnam Style," which was everywhere and yet completely evanescent — but in these arena shows, which were full of thousands of young, paying fans eager to see the girls of 2NE1 and the boys of BigBang, groups with zero American hits between them, but rabid American followings all the same.
  12. ^ a b Park Kyeong-eun (28 tháng 3 năm 2009). '여자빅뱅' 5월 초 데뷔, 新 여자아이돌 대 격돌 ["Female Big Bang" Debut in May, Female Idol Groups Crash (Together)]. Good Day Sports (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2016.
  13. ^ “여자 아이들그룹 '3차 대전' '애프터스쿨'·YG 3인조... '불꽃경쟁' [Female Idol Groups, Three of Them in War: "After School" – "YG's Trio" ... Flower War]. Dong-A Ilbo (bằng tiếng Hàn). 6 tháng 1 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2009.
  14. ^ “여자 빅뱅, '4명은 노출 1명은 베일'...5인조로 4월 데뷔”. My Daily (bằng tiếng Hàn). 21 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2009 – qua Nate.
  15. ^ “YG "원조 21에게 미안, '여자빅뱅' 이름 2NE1로 교체" [YG "Sorry to original 21, 'Female Big Bang' name will be replaced with 2NE1"]. Asia Economy (bằng tiếng Hàn). 30 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2009 – qua Nate.
  16. ^ “2NE1 Comes Out on Top at Music Bank”. The Korea Times (bằng tiếng Anh). 18 tháng 7 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2009.
  17. ^ “피에스타 린지 'YG 연습생 시절 2NE1 후보...내 길 아니였다 생각' [Fiestar Linzy, "2NE1 candidate when I was a YG trainee... I thought it wasn't my way"]. Sports Donga. 25 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2015 – qua Naver.
  18. ^ a b Park Kyeong-eun (ngày 28 tháng 3 năm 2009). '여자빅뱅' 5월 초 데뷔, 新 여자아이돌 대 격돌 ["Female Big Bang" Debut in May, Female Idol Groups Crash (Together)]. Good Day Sports (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2016.
  19. ^ (tiếng Triều Tiên) Lee, Duna. '여자빅뱅' CF통해 모습 공개한다 ("Female Big Bang" First Shown Through Commercial). uKopia. ngày 26 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2009.
  20. ^ (tiếng Triều Tiên) Im, I-rang. 빅뱅-2NE1 '롤리팝', CM송 최초 가요프로 1위 될까? (Big Bang-2NE1 "Lollipop", First Commercial Song to Hit #1 on Network Music Shows?). MyDaily. ngày 17 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2009.
  21. ^ (tiếng Triều Tiên) 신예 여성그룹 2NE1, 첫 타이틀곡 `파이어` 발표 (New Female Group 2NE1, First Single "Fire" Released) Lưu trữ 2009-07-18 tại Wayback Machine. Korea Economic Daily. ngày 7 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2009.
  22. ^ (tiếng Triều Tiên) 양현석 "2NE1 데뷔곡은 레게풍 힙합곡" (Yang Hyeon-seok "2NE1's Debut Song is Reggae/Hip-Hop Song"). SBS News. ngày 30 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2009.
  23. ^ (tiếng Triều Tiên) 2NE1, 두 가지 버전의 `파이어` 뮤비 공개 (2NE1, 2 Version of "Fire" Video Released) Lưu trữ 2009-07-18 tại Wayback Machine. Hankyung. ngày 7 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2009.
  24. ^ (tiếng Triều Tiên) Park, Sae-yeon. 2NE1, 2009 최고신인 되나? ‘파이어’ M/V 1백만 클릭 ‘대박’ (2NE1, 2009 Best New Group? "Fire" Music Video Receives 1 Million Clicks, "Huge Success") Lưu trữ 2020-06-10 tại Wayback Machine. JoongAng Ilbo/Newsen. ngày 7 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2009.
  25. ^ (tiếng Triều Tiên) Kim, Heejung. 2NE1, 가요계에 돌풍 일으키나? (2NE1, a K-Pop Blast?) Lưu trữ 2009-08-05 tại Wayback Machine. Korea Economic Daily. ngày 1 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2009.
  26. ^ a b c (tiếng Triều Tiên) Kim, Hyeong-wu. 2NE1 아이돈케어 ‘힙합전사에서 귀여운 여인 깜짝 변신’ (2NE1's "I Don't Care" "Swift Change from Hip-Hop Warriors to Sweet Girls") Lưu trữ 2009-09-13 tại Wayback Machine. IS Plus/Newsen. ngày 1 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2009.
  27. ^ 2NE1 Comes Out on Top at Music Bank. The Korea Times. ngày 18 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2009.
  28. ^ "2009 Mnet Asian Music Awards". Awards and Winners. Truy cập 2014-12-14.
  29. ^ "2009 M.net Korean Music Festival Winners list" Lưu trữ 2013-01-27 tại Wayback Machine. MAMA. Truy cập 2014-12-14.
  30. ^ a b (tiếng Triều Tiên) Hong, Jeong-won. 2NE1 ‘아이돈케어’ 레게믹스 반응 ‘핫’..3일 음원공개 (2NE1's "I Don't Care" Reggae Remix Received Hotly, To Be Released Digitally on the 3rd) Lưu trữ 2009-09-13 tại Wayback Machine. Joins.com/Newsen. ngày 1 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2009.
  31. ^ “Comeback D-2, 2NE1's upcoming album hits monster pre-order numbers”. Allkpop.com. ngày 6 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2011.
  32. ^ Han, Sang-hee. 6th Asia Song Festival To Take Place Next Month Lưu trữ 2009-09-17 tại Wayback Machine. The Korea Times. ngày 11 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2009.
  33. ^ a b (tiếng Triều Tiên) Park, Se-yeon. 2NE1 오늘(9일) 게릴라 신곡 깜짝공개 ‘날 따라 해봐요’ (2NE1 Releases "Guerilla" Surprise Single "Please Follow Me" Today (the 9th)) Lưu trữ 2020-06-10 tại Wayback Machine. JoongAng Ilbo/Newsen. ngày 9 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2010.
  34. ^ “Try to Follow Me” (bằng tiếng Hàn).
  35. ^ “Oriental whirl: American debut for 2NE1”. New Straits Times. ngày 19 tháng 9 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2010.
  36. ^ Herman, Tamar (ngày 26 tháng 11 năm 2016). “2NE1 Officially Disbands, YG Entertainment Renews Contracts With CL and Dara”. Billboard. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  37. ^ “[NEWS] 2NE1's "To Anyone" Album Pre-order Tops Hanteo Real-time Album Sales Chart!”. Daily K Pop News (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  38. ^ Gaon chart single rankings:
  39. ^ Park, Mi Yae (ngày 21 tháng 10 năm 2010). “양현석 "2NE1 후속곡..할로윈 공개" 호기심↑” [Yang Hyun-seok "2NE1's follow-up song will be released on Halloween" Curiosity↑]. SPN (bằng tiếng Hàn). eDaily. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2010.
  40. ^ “2NE1 후속곡 아파” [2NE1 Follow Up Song It Hurts]. YG Life (bằng tiếng Hàn). YG Entertainment. ngày 30 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2010. [liên kết hỏng]
  41. ^ a b “สี่สาวเปรี้ยวซ่า 2NE1 เตรียมส่งซิงเกิลพิเศษ "Don't Stop The Music" เพื่อแฟนไทยโดยเฉพาะพร้อมฟังก่อนใครในโลก!! 26 พฤศจิกายนนี้ ทุกคลื่นวิทยุทั่วประเทศ. กระแสตอบรับดี โอกาสเจอ 2NE1 ยิ่งมาก!!” [2NE1 releasing "Don't Stop the Music" as a special project for Thai fans, releasing November 26, good opportunity to meet 2NE1!]. Pingbook Entertainment (bằng tiếng Thái). Pingbook Network. ngày 25 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2010.
  42. ^ Hicap, Jonathan M. (ngày 29 tháng 11 năm 2010). “2NE1 wins MAMA Artist, Album of the Year”. Manila Bulletin. Manila Bulletin Publishing. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2011.
  43. ^ Hicap, Jonathan M. (ngày 29 tháng 10 năm 2010). “Controversial Mnet Asian Music Awards bares nominees”. Manila Bulletin. Manila Bulletin Publishing. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2011.
  44. ^ “MAMA "보아-女가수상, 씨엔블루-男신인상 등 추후 전달". tvdaily.mk.co.kr (bằng tiếng Hàn). ngày 29 tháng 11 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2015.
  45. ^ “CAN'T NOBODY (English Version) レコチョクにて独占先行配信開始!” ["Can't Nobody (English Version)" exclusive ringtone release on Recochoku!]. 2NE1 Avex Official Website (bằng tiếng Nhật). Avex Group. ngày 19 tháng 1 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2011.
  46. ^ "最後の大物"2NE1、今春日本デビュー [2NE1 to debut in Japan this Spring]. Sanspo.com (bằng tiếng Nhật). Sankei Digital Inc. ngày 23 tháng 2 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2011.
  47. ^ a b “「GO AWAY」、フジテレビ系「めざにゅ〜」テーマソングに決定!” ["Go Away" selected to be Mezamashi TV's theme song!]. Avex Official Website – 2NE1 (bằng tiếng Nhật). Avex Group. ngày 31 tháng 3 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2011.
  48. ^ Gil, Hye-seong (ngày 16 tháng 3 năm 2011). “양현석 "2NE1, 日안정되면 언제든 활동OK..韓활동먼저" [Yang Hyun Suk: "2NE1, waiting until Japanese situation is stable"]. Nate News (bằng tiếng Hàn). SK Communications. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2011.
  49. ^ アルバム 週間ランキング [Album Weekly Ranking]. Oricon Style (bằng tiếng Nhật). Oricon Inc. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2011.
  50. ^ “テレビ朝日「MUSIC STATION」オンエア中止のお知らせ” [TV Asahi's Music Station appearance cancelled]. Avex Official Website – 2NE1 (bằng tiếng Nhật). Avex Group. ngày 11 tháng 3 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2011.
  51. ^ a b “스타들의 "Pray for Japan" 릴레이가 시작되었습니다!” [Star's "Pray for Japan" relay has started!]. Naver (bằng tiếng Hàn). NHN Corp. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2011.
  52. ^ “2011 MAMA Winners”. Mnet Asian Music Awards. CJ E&M. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2014.
  53. ^ Gaon chart single rankings:
  54. ^ “[인티포털] 가온 차트 역대 음반판매량 TOP100 (2010~2014)”. 인스티즈(instiz, 音思提资). ngày 13 tháng 4 năm 2018.
  55. ^ “SPIN's 20 Best Pop Albums of 2011”. Spin Magazine. ngày 22 tháng 12 năm 2011.
  56. ^ a b “オリコンランキング情報サービス「you大樹」” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2014.
  57. ^ “You chose the best, and now it's your time to celebrate”.
  58. ^ “World, Get Ready For 2NE1: MTV Iggy's Best New Band In The World!”.
  59. ^ “53rd Japan Record Award winners”. Tokyograph. ngày 20 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2012.
  60. ^ “AKB48 wins 53rd Japan Record Award”. Tokyograph. ngày 30 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2012.
  61. ^ a b 2ne1のアルバム売り上げランキング (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2011.
  62. ^ “Big Bang and 2NE1 added to Springroove lineup”. Asia Pacific Arts. ngày 31 tháng 1 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2012.
  63. ^ “作品コード 704-3406-9 SHE'S SO(OUTTA CONTROL)” [M-Flo "She's So(Outta Control)" tie-up information]. JASRAC. 2012. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2012.
  64. ^ “Japan Billboard Hot 100”. Billboard Japan. ngày 21 tháng 3 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2012.
  65. ^ Herald, The Korea (ngày 24 tháng 6 năm 2012). “2PM, 2NE1, Girls' Generation win at Japan MTV awards”. www.koreaherald.com (bằng tiếng Anh).
  66. ^ (tiếng Triều Tiên) [단독]2NE1, 1년만 전격컴백..6월 韓새앨범·7월 콘서트:: 네이버 뉴스. News.naver.com. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2012.
  67. ^ “Best Band Style Of 2012”. MTV. ngày 7 tháng 12 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2013.
  68. ^ “Will.i.am & 2NE1's 'Take The World On' English Collab Revealed”. Billboard. ngày 14 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2013.
  69. ^ “will.i.am and 2NE1 Take the World On with Intel Ultrabook Project”. Mwave. ngày 19 tháng 6 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2013.
  70. ^ Yi, David (ngày 21 tháng 3 năm 2013). “Meet Jeremy Scott's Muse: K-Pop Star CL”. Elle. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2013.
  71. ^ Benjamin, Jeff (ngày 16 tháng 4 năm 2013). “Will.i.am and 2NE1 'Gettin' Dumb': Listen to the K-Pop Collaboration”. Billboard. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2013.
  72. ^ Gaon chart single rankings:
  73. ^ “An Interview with K-Pop Favorites 2NE1 and Their New Videos for "Happy" and "Come Back Home". www.vice.com (bằng tiếng Anh).
  74. ^ “2NE1 to Appear on the Final Episode of "America's Next Top Model". Yg Life. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2014.
  75. ^ Benjamin, Jeff (ngày 26 tháng 3 năm 2014). 'America's Next Top Model' Nabs K-Pop Groups 2NE1 and BTOB for Upcoming Season”. Billboard. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2014.
  76. ^ “NEWS ABOUT '2NE1'. YG-Life. ngày 13 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2014.
  77. ^ “NEWS ABOUT '2NE1' : PART 2”. YG Life. YG Entertainment. ngày 19 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2014.
  78. ^ “Come Back Home" and "Gotta Be You” (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 5 năm 2015.
  79. ^ “2NE1 Sets New U.S. Record for Highest-Charting, Best-Selling K-Pop Album With 'Crush'. Billboard. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2015.
  80. ^ “2NE1 – 2014 WORLD TOUR”. YG Life. ngày 26 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2014.
  81. ^ “DARA on '2NE1's World Tour Preparation' #1] A very serious videoconference”. YG Life. YG Entertainment. ngày 15 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2014.
  82. ^ “2nd World Tour Title: 2NE1 AON (ALL OR NOTHING)”. YG Life. ngày 15 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2014.
  83. ^ “MTV IGGY”. ngày 18 tháng 12 năm 2014.
  84. ^ “40 Best Albums of 2014”. Fuse. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  85. ^ Benjamin, Jeff; Oak, Jessica (ngày 11 tháng 12 năm 2014). “The 10 Best K-Pop Albums of 2014”. Billboard. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  86. ^ “World Albums Artists - Year-End 2014”. Billboard. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  87. ^ Benjamin, Jeff (ngày 22 tháng 12 năm 2014). “2NE1's 'Crush' Is First K-Pop Entry on Year-End World Albums Chart”. Billboard. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  88. ^ Yg United (ngày 5 tháng 10 năm 2015). “2NE1's Minzy Successfully Opens Her 'Millennium Dance Academy'. YG UNITED. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2015.
  89. ^ “[2015 MAMA] 2NE1 Performs as a Group for the First Time in Two Years”.
  90. ^ Nunez, Jatnna. “Beyoncé, 2NE1, Madonna & More: Amazing Performance of 2015”. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2015.
  91. ^ “Tumblr 2015: Year In Review”. Tumblr. Tumblr. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2015.
  92. ^ Yi, Yoonjung. “Chinese Elect the Top 10 Most Anticipated K-Stars of 2016”. International BNT News. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2015.
  93. ^ Yoon Seong-yeol (ngày 5 tháng 4 năm 2016). “YG "2NE1 공민지 탈퇴..팀 3인조 체재 여름 신곡"(전문)”. Star News (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2016.
  94. ^ '2NE1'에 대한 공식 입장”. YG Entertainment. ngày 5 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2016.
  95. ^ VTV, BAO DIEN TU (25 tháng 11 năm 2016). “SỐC: 2NE1 CHÍNH THỨC tan rã!”. BAO DIEN TU VTV. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2022.
  96. ^ “YG "2NE1, 7년만 공식 해체...박봄 재계약 NO"(공식입장 전문)”. Naver (bằng tiếng Hàn). ngày 25 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2017.
  97. ^ “2NE1 '안녕', 공민지 생각하면서 썼다...'고별송' 뒷이야기” (bằng tiếng Hàn). YG Entertainment. ngày 21 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2017.
  98. ^ “World Digital Song Sales - ngày 11 tháng 2 năm 2017”. Billboard Chart. ngày 31 tháng 1 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2017.
  99. ^ “Nhóm nhạc 2NE1 bất ngờ tái hợp trên sân khấu Coachella sau 6 năm”. VOV.VN. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2022.
  100. ^ “The 10 best (virtual) Coachella performances”. The A.V. Club (bằng tiếng Anh). 25 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2023.
  101. ^ Phương Linh. “2NE1 tái xuất sau bảy năm”. VNexpress.
  102. ^ “안녕 (Goodbye)”. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2021.
  103. ^ Moon, Wan-sik (ngày 1 tháng 7 năm 2009). “2NE1 첫 미니 타이틀 'I don't care' 1일 전격 공개” [2NE1 first mini-album titled I Don't Care, takes public by storm]. Star News (bằng tiếng Hàn). MoneyToday. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
  104. ^ Park, Yeong-ung (ngày 10 tháng 9 năm 2010). '컴백' 2NE1, 댄스 타이틀곡 '고 어웨이' 뮤비 공개” [2NE1 comeback, dance title track "Go Away" music video released]. Star News (bằng tiếng Hàn). MoneyToday. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
  105. ^ Mun, Wan-sik (ngày 31 tháng 10 năm 2010). '인기가요' 2NE1, 후속곡 '아파' 첫선 '4人4色' [2NE1 on Inkigayo, "It Hurts" song debut: 4 people, 4 colors]. Star News (bằng tiếng Hàn). MoneyToday. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
  106. ^ Park, Yeong-ung (ngày 3 tháng 10 năm 2010). “2NE1, 25일만에 1위 8번..'가요계평정' 의미는?” [2NE1, 25 days after being number one eight times, what's this mean for the music industry?]. Star News (bằng tiếng Hàn). MoneyToday. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
  107. ^ Garibaldi, Christina (17 tháng 10 năm 2012). “2NE1 Bringing K-Pop 'Girl Power' Stateside With will.i.am-Assisted Debut”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2013.
  108. ^ Sablan, Niño Mark (24 tháng 7 năm 2009). “Crazy for K-Pop”. Philippine Daily Inquirer. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2010.
  109. ^ Park, Mi-ae (ngày 22 tháng 5 năm 2009). 박봄, "가수 꿈 위해 유학도 포기했어요~" [Park Bom, "For my singing dream, I stopped my overseas studying~"]. eDaily SPN (bằng tiếng Hàn). eDaily. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2010.
  110. ^ a b Park Yeong-ung (13 tháng 10 năm 2010). "박봄은 비욘세?"..2NE1이 밝힌 롤모델은?” ["Park Bom and Beyoncé?" Who are 2NE1's role models?]. Star News (bằng tiếng Hàn). MoneyToday. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
  111. ^ Park, Mi-ae (ngày 22 tháng 5 năm 2009). “CL, "데모 테이프 들고 무작정 YG 문 노크" [CL, "knocked on the YG Entertainment door to hand in my demo tape"]. eDaily SPN (bằng tiếng Hàn). eDaily. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2010.
  112. ^ “Rating the Latest Idol Group Comebacks”. KBS Global. KBS. ngày 15 tháng 11 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2010.
  113. ^ Park, Yeong-ung (1 tháng 11 năm 2010). “산다라박의 눈물..2NE1 '아파' 뮤비 공개” [Sandara Park's tears; 2NE1's "It Hurts" music video released]. Star News (bằng tiếng Hàn). MoneyToday. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
  114. ^ Song, Yeong-won (ngày 13 tháng 11 năm 2010). “★처럼 이미지 변신하고 싶다면? '패션가발'을 활용해라!” [Do you want to have an image transformation? Use a wig!]. Nate News (bằng tiếng Hàn). SK Communications. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
  115. ^ Greenburg, Zack (16 tháng 10 năm 2012). “Bigger Than Psy: 2NE1 And The Future Of K-Pop”. Forbes. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2013. Known by many as the Korean version of the Spice Girls, the group has sold 27 million digital downloads to date, including the single "I Am The Best," which moved 4.5 million units
  116. ^ Kim, Ruth (2 tháng 8 năm 2017). “The Best Beauty Looks of 2NE1 & How You Can Recreate Them”. Beautytap.
  117. ^ a b (tiếng Triều Tiên) Lee, Na-Young. 2NE1, 이번에는 광고계 접수한다! '억대모델 발탁' (2NE1, This time they're taking over the advertising industry) Lưu trữ tháng 3 4, 2016 tại Wayback Machine. Today Korea. June 16, 2009. Truy cập June 16, 2009.
  118. ^ Benjamin, Jeff (8 tháng 5 năm 2013). “YG Entertainment Teases 'Who's Next?' as Mysterious '2NE1 Loves' Videos Surface”. billboard.
  119. ^ “2NE1, 하이주얼리 브랜드 '크롬하츠'와 콜라보레이션” (bằng tiếng Hàn). YG Family. 20 tháng 5 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2013.
  120. ^ “[TV톡] 키워드로 본 올해의 가요-수치, 대세, 컴백, 국민Pick, 이별, oo병 #2017총결산(17)”. iMBC (bằng tiếng Hàn). 23 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2021.
  121. ^ a b Gu, Dul-rae (12 tháng 2 năm 2017). “걸크러시의 첫기억, 심장에 그려줘, 안녕”. The Hankyoreh (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2021.
  122. ^ Kwak, Kristine (20 tháng 10 năm 2021). “CL Reintroduces Herself as the 'Alpha'. Rolling Stone (bằng tiếng Anh).
  123. ^ Herman, Tamar (5 tháng 4 năm 2016). “K-Pop Group 2NE1 Becomes Trio Following Departure of Minzy”. Billboard. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2023.
  124. ^ Benjamin, Jeff (9 tháng 1 năm 2014). “10 Dope Looks From 2NE1 Throughout the Years”. Fuse. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 5 năm 2015.
  125. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên scmp 2021
  126. ^ a b Sunio, Patti (27 tháng 7 năm 2020). “7 top second generation K-pop girl groups, from Kara to Girls Generation”. South China Morning Post (bằng tiếng Anh).
  127. ^ “추앙받는 K-POP의 절대자, CL” [Revered as K-pop's Supreme, CL]. Rolling Stone Korea (bằng tiếng Hàn). 6 tháng 12 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2022.
  128. ^ Kelley, Caitlin (27 tháng 12 năm 2018). “How 'Girl Crush' Hooked Female Fans and Grappled With Feminism as K-pop Went Global in 2018”. Billboard. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2021.
  129. ^ Breihan, Tom (6 tháng 11 năm 2019). “The 20 Best Music Videos Of The 2010s”. Stereogum (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2022.
  130. ^ “The 21 Best K-Pop Songs of All Time”. SPIN. 1 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2021.
  131. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên pitchfork 2014
  132. ^ “The Story of Girl Groups in 45 Songs (page 5)”. Pitchfork. 2 tháng 7 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2022.
  133. ^ “The 100 Greatest K-Pop Songs of the 2010s: Staff List”. Billboard. 25 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2021.
  134. ^ “100 K-Pop Masterpieces: Fire - 2NE1” (bằng tiếng Hàn). Melon. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2021.
  135. ^ “100 K-Pop Masterpieces: 내가 제일 잘 나가 (I Am the Best) - 2NE1” (bằng tiếng Hàn). Melon. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2021.
  136. ^ “The 24 Songs That Shaped the Decade”. GQ (bằng tiếng Anh). 23 tháng 12 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2022.
  137. ^ Glasby, Taylor (20 tháng 12 năm 2019). “The game-changers from a decade of K-pop”. British GQ. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2021.
  138. ^ Sachdeva, Maanya (17 tháng 4 năm 2022). 'Queens of K-pop' 2NE1 reunite at Coachella for first performance since 2015”. The Independent (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  139. ^ Mims, Taylor (22 tháng 4 năm 2022). “88rising Founder on Assembling a Historic Coachella Set”. Billboard. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2022. The 80-minute set notably featured the long-awaited return of the 'Queens of K-Pop,' 2NE1
  140. ^ Griffiths, George (27 tháng 10 năm 2022). “Music acts that are long overdue a comeback”. Official Charts Company (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2022.
  141. ^ '퀸덤' (여자)아이들, 2NE1 '파이어' 커버 무대 선사” ['Queendom' (G)I-dle presents 2NE1's 'Fire' cover stage] (bằng tiếng Hàn). MBN. 20 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2022 – qua Naver.
  142. ^ Sources:
  143. ^ “Mamamoo's Hwasa Burst Into Tears On Stage Because Of Park Bom”. Kpop Hit (bằng tiếng Anh). 13 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2021.
  144. ^ “Jeremy Scott: 'There're Kpop groups, and there's 2NE1'. Yahoo! News. 13 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2021.
  145. ^ Shetler, Scott (12 tháng 11 năm 2011). “Diplo Says K-Pop Group 2NE1 Is the Best New Band”. PopCrush (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2021.
  146. ^ Park, Soo-in (2 tháng 9 năm 2016). '스케치북' 아이오아이 "'픽미' 안무, 망했구나 생각했다" ['Sketchbook' I.O.I "I thought the choreography of 'Pick Me' was ruined"]. Herald Pop (bằng tiếng Hàn).
  147. ^ Lee, Woo-in (7 tháng 8 năm 2015). '불후' 에일리 "2NE1 멤버 되는 상상한 적 있다" ['Immortal' Ailee 'I've imagined becoming a member of 2NE1']. TV Report (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2021 – qua Naver.
  148. ^ '언슬2' 전소미, 성공한 공민지 덕후.."가수의 꿈을 키웠다" ['Sisters' Slam Dunk 2' Jeon So-mi, a successful admirer of Gong Minzy... "I have achieved my dream of becoming a singer"]. Herald Pop (bằng tiếng Hàn). 10 tháng 2 năm 2017 – qua Naver.
  149. ^ “최예나 '이효리 보고 K팝 입문→2NE1 보며 꿈 키워'(복면가왕)[어제TV]” [Choi Ye-na 'Introduced to K-pop with Lee Hyori → Watching 2NE1 and dreaming of becoming a singer' (King of Mask Singer)]. Newsen (bằng tiếng Hàn). 28 tháng 6 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 2 năm 2022 – qua Naver.
  150. ^ “오마이걸 승희와 지호, 서브웨이 먹고 운 사연” [The story of Oh My Girl's Seunghee and Jiho eating Subway]. Cosmopolitan Korea (bằng tiếng Hàn). 25 tháng 8 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2021.
  151. ^ Lee, Narin (30 tháng 10 năm 2020). “[SBS Star] Weki Meki Choi Yoojung Shares She Auditioned for YG Ent. Because She Loved 2NE1”. SBS News (bằng tiếng Anh).
  152. ^ “woo!ah!(우아!), 2NE1 'Fire' 재해석...'릴레이댄스 어게인' 120만뷰 돌파” [woo!ah!, 2NE1's 'Fire' cover... 'Relay Dance Again' surpasses 1.2 million views]. MK Sports (bằng tiếng Hàn). 5 tháng 1 năm 2021.
  153. ^ Bernando, Jaehwa (20 tháng 6 năm 2022). “Chantal Videla makes K-pop debut with Lapillus”. ABS-CBN News. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2022.
  154. ^ Jang, Yoon-jung (19 tháng 5 năm 2020). “[종합] 시크릿넘버, 글로벌 겨냥한 다국적 완성형 걸그룹의 출발” [[General] Secret Number, the launch of a multinational, complete girl group targeting the global market]. Aju Economy. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2021.
  155. ^ “혼혈그룹 '쇼콜라', "우리의 롤 모델은 2NE1" [Mixed race group 'Chocolat', 'Our role model is 2NE1']. MBN (bằng tiếng Hàn). 17 tháng 8 năm 2011.
  156. ^ Hwang, Mi-hyun (9 tháng 1 năm 2012). “달샤벳 "우리 롤모델? 이효리-2NE1"...이유는?” [Dal Shabet 'Our role model? Lee Hyori and 2NE1' ... The reason is?]. Osen. Naver. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2021.
  157. ^ “신예 걸그룹들 "우리 롤모델은 2NE1" 왜?” [Rookie girl groups "Why our role model is 2NE1"?]. Osen (bằng tiếng Hàn). Naver. 19 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2022.
  158. ^ Lee, Jaehoon (20 tháng 11 năm 2016). “[인터뷰]모모랜드'서바이벌로 많이 성장...오래오래 활동 목표'. Newsis (bằng tiếng Hàn) – qua Naver. They are my role model sunbaenims. After going to their concert, I wanted to become a singer.
  159. ^ Kim, Eun-goo (12 tháng 3 năm 2017). '이달의 소녀 1/3' 비비 "홍콩서 빅뱅 뮤비 보고 가진 K팝 꿈". Edaily (bằng tiếng Hàn). When I first saw the music videos of Big Bang and 2NE1 when I was in middle school, my dream was decided.
  160. ^ “One of the Itzy girls love qwek-qwek”. Manila Bulletin (bằng tiếng Anh). 17 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2023. Lia: I'm a huge fan of 2NE1. I would just sing the whole list of their songs.
  161. ^ “핫이슈 "하니·씨엘·블랙핑크·아이유·제시 롤모델" [Trending "CL, Blackpink, IU suggested as role models."]. Kyunghyang Newspaper (bằng tiếng Hàn). 28 tháng 4 năm 2021. When I was young, I watched 2NE1's 'Fire' music video, and the great aura emanating from the intro was so cool, I wanted to imitate that.
  162. ^ Kim, Na-yul (6 tháng 11 năm 2022). “[어게인TV]"메인댄서도 노래 잘해"..'복면가왕' 빌리 츠키, 편견 깨고 당찬 포부”. Herald Pop (bằng tiếng Hàn). Naver. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2022.
  163. ^ '골때녀' 공민지 합류에 다영 팬심 폭발 '몰카인줄 알았다' [결정적장면]” [Dayoung's fan heart exploded when Gong Minji joined 'Goal Girl' 'I thought there was a hidden camera' [Critical scene]]. Newsen (bằng tiếng Hàn). Naver. 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2023.
  164. ^ '라이징' 트리플에스 윤서연 "인생 한 번 사는 거 특별하게 살고 싶어 아이돌 꿈꿔" (정희)”. iMBC (bằng tiếng Hàn). Naver. 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2023. Kim Na-kyung picked 2NE1 as her idol when she was young
  165. ^ Basbas, Franchesca Judine (22 tháng 3 năm 2023). “FIFTY FIFTY on their musical inspirations, the meaning of love, and working on their viral hit 'Cupid'. Bandwagon Asia (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2023.
  166. ^ “SHINee's Key reveals the group had no real input for the first seven years”. NME. 17 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2021.
  167. ^ Lee, Hye-rin (10 tháng 6 năm 2009). “2NE1, 디지털 뮤직어워드 3관왕 기염①” [2NE1, 3-time digital music award winners]. Asiae (bằng tiếng Hàn). Asiae. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2009.
  168. ^ “2009 Mnet Asian Music Awards”. Mnet Asian Music Awards (bằng tiếng Hàn). Mnet Media. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2010.
  169. ^ Hicap, Jonathan M. (2 tháng 3 năm 2010). “2NE1 wins big at Cyworld Digital Music Awards”. Manila Bulletin. Manila Bulletin Publishing. Bản gốc lưu trữ 6 Tháng Ba năm 2010. Truy cập 24 Tháng tư năm 2010.
  170. ^ “2009 Golden Disk Award nominees revealed”. AllKpop. 2 tháng 11 năm 2009.
  171. ^ “2009 Melon Music Awards”. Melon (bằng tiếng Hàn). Loen Entertainment. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2010.
  172. ^ Hicap, Jonathan M. (ngày 29 tháng 11 năm 2010). “2NE1 wins MAMA artist, Album of the Year”. Manila Bulletin. Manila Bulletin Publishing. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2010.
  173. ^ “2NE1 Wins Major Awards at the 2010 Mnet Asian Music Awards!”. myx.abs-cbn.com (bằng tiếng Anh). 2 tháng 12 năm 2010.
  174. ^ “K-Pop's Hottest Girl Group Has Officially Broken Up”. NextShark. ngày 29 tháng 11 năm 2016.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]