Bước tới nội dung

Plectropomus

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Plectropomus
P. oligacanthus
P. areolatus
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Perciformes
Họ (familia)Serranidae
Phân họ (subfamilia)Epinephelinae
Tông (tribus)Epinephelini
Chi (genus)Plectropomus
Oken, 1817
Loài điển hình
Bodianus maculatus[1]
Bloch, 1787
Các loài
8 loài, xem trong bài
Danh pháp đồng nghĩa

Plectropomus là một chi cá biển thuộc phân họ Epinephelinae trong họ Cá mú.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh plectropomus được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: plêktron (πλῆκτρον; "nắp đậy") và pôma (πῶμα; "nắp đậy"), hàm ý đề cập đến rìa dưới của xương trước nắp mang có 3 ngạnh lớn hướng xuống, được che bởi lớp da.[2]

Các loài

[sửa | sửa mã nguồn]

Có 8 loài được công nhận là hợp lệ trong chi Plectropomus:[3]

Mô tả chung

[sửa | sửa mã nguồn]

Plectropomus là những loài có kích thước khá lớn, có thể đạt đến chiều dài 125 cm như ở P. maculatusP. laevis.

Về màu sắc, Plectropomus có màu đỏ tươi, nâu đỏ, xám trắng hoặc sẫm đen tùy từng loài, và có thể có các vạch đốm xanh trên thân. Riêng ở P. laevis, có đến hai kiểu hình khác biệt được biết đến ở loài này.

Plectropomus có một cặp răng nanh rất lớn ở hàm trước, mỗi bên hàm dưới có từ 1 đến 4 răng nanh nhỏ hơn.[4]

Sinh thái học

[sửa | sửa mã nguồn]
P. laevis

Thức ăn của các loài Plectropomus chủ yếu là những loài cá nhỏ hơn, đôi khi chúng ăn cả động vật giáp xáccá mực.

Một số loài Plectropomus được xác định là loài lưỡng tính tiền nữ, như P. leopardus, P. maculatusP. laevis.[5] Cá con của 3 loài này còn có khả năng bắt chước kiểu hình của một số loài cá nóc chi Canthigaster (như Canthigaster valentiniCanthigaster papua) nhằm né tránh sự truy lùng của những kẻ săn mồi (bắt chước kiểu Bates), và P. maculatus còn có thể bắt chước kiểu hình của cá lượng con Scolopsis monogramma.[6]

P. marisrubri và cá lịch Gymnothorax javanicus có thể giao tiếpphối hợp săn mồi, một điều đã được quan sát ở Biển Đỏ. Để bắt đầu cuộc săn mồi, P. marisrubri bơi đến trước mặt G. javanicus và lắc đầu với tần suất cao (3–6 lần lắc mỗi giây) để ra hiệu cùng đi chung.[7]

Thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

Mặc dù là những loài có giá trị cao trong nghề cá thương mại, nhiều vụ ngộ độc ciguatera đã được báo cáo ở những loài Plectropomus. Vì nạn đánh bắt quá mứcP. areolatusP. marisrubri được xếp vào Loài sắp nguy cấp theo Sách đỏ IUCN.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). Plectropomus. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2022.
  2. ^ Christopher Scharpf (2021). “Order Perciformes: Suborder Serranoidei: Family Serranidae (part 2)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2022.
  3. ^ Paolo Parenti; John E. Randall (2020). “An annotated checklist of the fishes of the family Serranidae of the world with description of two new related families of fishes”. FishTaxa. 15: 91–93.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  4. ^ John E. Randall; Gerald R. Allen; Roger C. Steene (1998). The Fishes of the Great Barrier Reef and Coral Sea. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 116. ISBN 978-0824818951.
  5. ^ Adams, S. (2003). “Morphological ontogeny of the gonad of three plectropomid species through sex differentiation and transition”. Journal of Fish Biology. 63 (1): 22–36. doi:10.1046/j.1095-8649.2003.00098.x.
  6. ^ Chen, K.-S.; Wen, C. K.-C. (2018). “The predator's new clothes: juvenile Plectropomus maculatus, a mimic of Scolopsis monogramma”. Coral Reefs. 37 (4): 1241–1241. doi:10.1007/s00338-018-01746-9. ISSN 1432-0975.
  7. ^ Bshary, Redouan; Hohner, Andrea; Ait-el-Djoudi, Karim; Fricke, Hans (2006). “Interspecific Communicative and Coordinated Hunting between Groupers and Giant Moray Eels in the Red Sea”. PLoS Biology. 4 (12): e431. doi:10.1371/journal.pbio.0040431. ISSN 1544-9173. PMC 1750927. PMID 17147471.