Richard Wellesley, Hầu tước Wellesley thứ 1
Hầu tước Wellesley | |
---|---|
Chân dung được vẽ bởi Thomas Lawrence | |
Chức vụ | |
Nhiệm kỳ | 08/12/1821 – 27/02/1828 |
Tiền nhiệm | Bá tước Talbot |
Kế nhiệm | Hầu tước Anglesey |
Nhiệm kỳ | 12/09/1833 – 11/1834 |
Tiền nhiệm | Hầu tước Anglesey |
Kế nhiệm | Bá tước Haddington |
Nhiệm kỳ | 06/12/1809 – 04/03/1812 |
Tiền nhiệm | Bá tước Bathurst |
Kế nhiệm | Tử tước Castlereagh |
Nhiệm kỳ | 18/05/1796 – 30/06/1805 |
Tiền nhiệm | Ngài Alured Clarke (provisional) |
Kế nhiệm | Hầu tước Cornwallis |
Thông tin cá nhân | |
Quốc tịch | Iraland |
Sinh | Lâu đài Dangan, Meath | 20 tháng 6 năm 1760
Mất | 26 tháng 9 năm 1842 Knightsbridge, London | (82 tuổi)
Nơi an nghỉ | Eton College Chapel |
Đảng chính trị | Tory |
Cha | Garret Wesley |
Alma mater | Nhà thờ Chúa Kitô, Oxford |
Richard Colley Wellesley, Hầu tước Wellesley thứ 1 (20/06/1760 - 26/09/1842) là một chính trị gia và quản lý thuộc địa người Anh-Ireland. Ông được phong Tử tước xứ Wellesley cho đến năm 1781, sau đó ông nhận tước vị Bá tước thứ 2 của Mornington từ cha mình. Năm 1799, ông được phong Hầu tước Mornington theo hệ thống quý tộc Ireland. Từ năm 1798 đến năm 1805, ông được bổ nhiệm làm Toàn quyền Ấn Độ, và sau đó ông giữ chức Ngoại trưởng trong Nội các Anh, đồng thời là Lãnh chúa Ireland. Ông là Toàn quyền thứ 5 của Ấn độ (1798 - 1805). Năm 1799, ông đã mô tả kẻ thù của mình là một bạo chúa tàn ác cần phải loại bỏ, đồng thời tiến hành một cuộc xâm lược vào Vương quốc Mysore và đánh bại vị vua của nó là Tippu Sultan trong một trận chiến lớn.
Ông là con trai cả của Bá tước thứ 1 xứ Mornington, và mẹ là Anne, con gái lớn của Tử tước thứ nhất xứ Dungannon. Em trai của ông là Arthur Wellesley, Công tước thứ nhất của Wellington, người đứng đầu liên quân đánh bại Hoàng đế Napoleon tại Trận Waterloo. Wellesley chính là ông cố ngoại của Elizabeth Bowes-Lyon, vợ của Vua George VI.
Giáo dục và cuộc sống đầu đời
[sửa | sửa mã nguồn]Wellesley sinh năm 1760 tại Lâu đài Dangan ở quận Meath, Ireland, nơi gia đình ông thuộc dòng dõi Ascendancy, tầng lớp quý tộc Anh-Ireland cũ. Ông được học tại Trường Hoàng gia, Armagh, Trường Harrow và Eton College, nơi ông tự nhận mình là một học giả cổ điển, và tại Nhà thờ Chúa Kitô, Oxford. Ông là một trong số ít người được học ở cả Harrow và Eton.
Năm 1780, ông bước vào Hạ viện Ireland với tư cách là đại diện của khu vực bầu cử Trim cho đến 1 năm sau, khi cha ông qua đời, ông tiếp nhận tước vị Bá tước thứ 2 của Mornington và nắm giữ ghế Thượng nghị sĩ tại Viện quý tộc Ireland.
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- Bài viết này bao gồm văn bản từ một ấn phẩm hiện thời trong phạm vi công cộng: Chisholm, Hugh biên tập (1911). “Wellesley, Richard Colley Wesley, Marquess”. Encyclopædia Britannica (ấn bản thứ 11). Cambridge University Press.
Thư mục
[sửa | sửa mã nguồn]- Bản mẫu:Cite IrishBio
- http://holisticthought.com/india-under-the-british-the-marquis-of-wellesley/
- Elizabeth Longford (tháng 11 năm 1972). Wellington: Pillar of state. Weidenfeld & Nicolson. ISBN 978-0-297-00250-5.
- Butler, Iris. The Eldest Brother. London: Hodder and Stoughton, 1973.
- Ingram, Edward, ed. Two Views of British India: The Private Correspondence of Mr. Dundas and Lord Wellesley, 1798–1801. Bath: Adams and Dart, 1970.
- Harrington, Jack (2010), Sir John Malcolm and the Creation of British India, New York: Palgrave Macmillan., ISBN 978-0-230-10885-1
- Martin, Robert Montgomery, ed. The Despatches, Minutes & Correspondence of the Marquess Wellesley During His Administration in India. 5 vols. London: 1836–37.
- Pearce, Robert Rouiere. Memoirs and Correspondence of the Most Noble Richard Marquess Wellesley. 3 vols. London: 1846.
- Renick, M. S. Lord Wellesley and the Indian States. Agra: Arvind Vivek Prakashan, 1987.
- Roberts, P. E. India Under Wellesley. London: George Bell & Sons, 1929.
- The Wellesley Papers: The Life and Correspondence of Richard Colley Wellesley. 2 vols. London: Herbert Jenkins, 1914.
- Torrens, William McCullagh. The Marquess Wellesley: Architect of Empire. London: Chatto and Windus, 1880.