Bước tới nội dung

NGC 1291

Tọa độ: Sky map 03h 15m 29.6s, −41° 17′ 25.6″
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ NGC 1269)
NGC 1291
Hình ảnh phức hợp của NGC 1291 được xử lý chủ yếu từ dữ liệu thu thập bởi NASA's Galaxy Evolution Explorer vào tháng năm 2003. Các màu xanh trong hình ảnh này được tia cực tím ánh sáng bắt bởi máy dò bước sóng dài GALEX của, các màu xanh lá cây được tia cực tím phát hiện bởi máy dò bước sóng ngắn của nó, và màu đỏ trong hình ảnh là ánh sáng nhìn thấy được nhờ dữ liệu từ Đài quan sát liên Mỹ Cerro TololoChile.[1]
Dữ liệu quan sát (Kỷ nguyên J2000)
Chòm saoBa Giang
Xích kinh03h 15m 29.6s[2]
Xích vĩ−41° 17′ 25.6″[2]
Dịch chuyển đỏ0.002799 (839 ± 2 km/s)[2]
Khoảng cách33 Mly
Cấp sao biểu kiến (V)9.39[2]
Đặc tính
Kiểu(R_1)SB(l)0/a[2]
Kích thước biểu kiến (V)9′.8 × 8′.1[2]
Đặc trưng đáng chú ýinner bar and outer ring structure
Tên gọi khác
PGC 012209,[2]

NGC 1291, ( NGC 1269) là một thiên hà dạng vòng có cấu trúc thanh bên trong và vòng ngoài khác thường nằm cách xa khoảng 33 triệu năm ánh sáng trong chòm sao Ba Giang. Nó được phát hiện bởi James Dunlop vào năm 1826 và sau đó được đưa vào danh mục chung mới với tên gọi NGC 1291 bởi Johan Ludvig Emil Dreyer. John Herschel sau đó đã quan sát cùng một vật thể vào năm 1836 và nhập nó vào danh mục với tên NGC 1269 mà không nhận ra rằng nó là một . Thiên hà này đã được nhóm Khám phá Tiến hóa Thiên hà của NASA xem như một ví dụ về "thiên hà chuyển tiếp" vào năm 2007.

Hình ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Dunbar, Brian (ngày 22 tháng 11 năm 2007). Watanabe, Susan (biên tập). “NGC 1291”. NASA. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2012.
  2. ^ a b c d e f g “NASA/IPAC Extragalactic Database”. Results for NGC 1291. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2009.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]